Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Tài liệu đang bị lỗi
File tài liệu này hiện đang bị hỏng, chúng tôi đang cố gắng khắc phục.
Khảo sát kỹ năng tiếng việt của học sinh lớp 3 người jarai ở một số trường tiểu học huyện chư sê tỉnh gia lai.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------
TRẦN MINH KHÔI
Khảo sát kỹ năng tiếng Việt của học sinh lớp 3
người Jarai ở một số trường tiểu học huyện
Chư Sê tỉnh Gia Lai
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, ở nước ta, đồng bào DTTS chiếm khoảng 14% dân số cả
nước và cư trú trên 52 tỉnh thành, thành phố. Phần lớn đồng bào các DTTS số
sinh sống ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, đây là những vùng đặc biệt khó
khăn. Thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà
nước luôn xác định vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là trên hết với những
chủ trương về phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Về giáo dục thì nhiệm
vụ hàng đầu là giáo dục ngôn ngữ cho các DTTS, ngoài TMĐ thì việc dạy và
học TV là điều kiện quan trọng giúp họ tiếp cận tri thức một cách dễ dàng,
đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng đang gặp nhiều khó khăn này.
TV là ngôn ngữ của người Kinh. Đây là TMĐ của khoảng 85% cư dân
Việt Nam. Đối với mỗi người dân thì TV có vai trò đặc biệt quan trọng, là
phương tiện, là chìa khóa mở cánh cửa trí thức của nhân loại. Vì vậy việc dạy
TV là nhiệm vụ hàng đầu trong việc phát triển giáo dục và kinh tế nước nhà.
Ở nước ta, dạy TV hướng đến ba đối tượng đó là người bản ngữ (người
Kinh), người nước ngoài và đồng bào DTTS đang sinh sống trên lãnh thổ Việt
Nam. Mỗi đối tượng học TV đều có những nhu cầu và đặc điểm riêng cho nên
việc dạy cũng phải có những phương pháp khác nhau để phù hợp với từng đối
tượng tiếp nhận.
Với chính sách phát triển giáo dục miền núi thì việc đầu tiên là dạy TV
cho HS DTTS, nhưng phương pháp dạy như thế nào để đạt hiệu quả tốt lại là
vấn đề đặt ra với giáo dục ngôn ngữ vùng sâu vì học TV là ngôn ngữ thứ hai
3
của họ. Đề tài chúng tôi nghiên cứu là Khảo sát kỹ năng tiếng Việt của học
sinh lớp 3 người Jarai ở một số trường tiểu học huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai.
Chúng tôi thống kê và đưa ra các con số về những lỗi sai cũng như những kĩ
năng TV của HS trong quá trình học và sử dụng TV, từ đó đưa ra những đề
xuất và biện pháp mang tính hiệu quả cho hoạt động dạy và học TV ở Chư Sê
nói riêng và các vùng có dân tộc thiểu số trên toàn quốc nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Giáo dục ngôn ngữ ở các vùng dân tộc thiểu số là một hoat động mang
tính xã hội và thu hút sự tham gia của các cấp các ngành, đặc biệt là dự án
phát triển giáo dục Tiểu học hay các bài nghiên cứu về TV ở Tiểu học. Trong
đó có các công trình nghiên cứu sau:
PGS. TS Trần Trí Dõi đã tiến hành nghiên cứu đề tài Thực trạng giáo
dục ngôn ngữ vùng dân tộc miền núi 3 tỉnh phía Bắc Việt Nam – Những
kiến nghị và giải pháp (2004). Đây là đề tài trọng điểm quốc gia và
mang tính thiết thực cao.
Dương Thiệu Hoa với công trình Hình thành kỹ năng đọc và viết tiếng
Việt cho học sinh đầu lớp 1 (1990).
Nguyễn Tri Hùng nghiên cứu về đề tài Giáo dục ngôn ngữ và sự phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số phía Nam. Đề tài này đề cập đến vấn
đề chữ viết dân tộc Katu – Quảng Nam – Đà Nẵng với việc bảo tồn và
phát triển di sản văn hóa dân tộc.
Tác giả Phan Thiều với các công trình Dạy nói cho trẻ em trước tuổi
cấp 1 (1979) và Đọc và dạy đọc cấp 1 (1990).
Như vậy, với những công trình lý thuyết và thực tiễn của các tác giả trong
và ngoài nước đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về kỹ năng và phương
pháp dạy học tiếng Việt. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên
4
cứu kĩ năng TV của dân tộc Jarai trên địa bàn huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai. Với
đề tài rất có ý nghĩa này, chúng tôi xin đóng góp sự nghiên cứu của mình vào
công tác giáo dục TV cho DTTS ở nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là HS lớp 3 người Jarai, chúng tôi tập
trung vào khảo sát bốn kĩ năng TV của học sinh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài này chúng tôi giới hạn phạm vi khảo sát một số trường Tiểu học
trên địa bàn huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu tốt đề tài này, chúng tôi áp dụng một số phương pháp
sau:
4.1. Phương pháp lý thuyết: Phân tích tổng hợp một số lý thuyết về dạy và
học tiếng Việt ở Tiểu học. Các biện pháp rèn luyện kĩ năng TV ở Tiểu học.
4.2. Phương pháp thực tiễn.
+ Phương pháp Anket: Với đề tài khảo sát thực tế thì không thể thiếu phương
pháp này, chúng tôi sử dụng phiếu Anket để thu thập ngữ liệu cũng như
những kĩ năng cần khảo sát.
+ Phương pháp quan sát sư phạm: Phương pháp này giúp chúng tôi nhắm
được tiến trình dạy và học TV của GV và HS Jarai làm tiền đề cho việc tổng
thuật.
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Những ý kiến của các thầy cô có kinh
nghiệm dạy học TV cho HS Jarai định hướng cho những phương diện chúng
tôi khảo sát thiết thực và hiệu qua hơn
5
4.3. Một số công thức toán học. Trong khóa luận này chúng tôi sử dụng một
số công thức toán học để thống kê bốn kĩ năng sử dụng TV của HS Jarai, tỷ lệ
phần trăm về những lỗi sai được chúng tôi thống kê cụ thể.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Xuất phát từ lý do chọn đề tài và đối tượng nghiên cứu, chúng tôi xác
định nhiệm vụ của đề tài như sau:
Khảo sát kĩ năng TV của HSDT Jarai ở khối lớp 3 với 4 kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết; tìm ra các lỗi sai và nguyên nhân.
Đề xuất những hình thức dạy và học, hình thức tổ chức lớp học và phẩm
chất của GVSN để việc dạy học TV ở đây đạt hiệu quả tốt.
6. Dự kiến đóng góp của đề tài
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nêu lên thực trạng dạy và học TV cho
HSDT Jarai trên địa bàn huyện Chư Sê ở khối lớp 3, những mặt yếu kém từ
khảo sát thực trạng và những ý kiến đề xuất, những kiến nghị của chúng tôi
hy vọng sẽ được áp dụng trong thời gian sớm nhất để có thể tăng cường năng
lực TV cho HS vùng này.
7. Bố cục của khóa luận.
phần mở đầu, phần kết luận, phần nội dung chính có ba chương sau:
Chương một: Những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Chương hai: Khảo sát kĩ năng TV của HS lớp 3 người Jarai.
Chương 3: Một vài kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng dạy và học TV cho
HSDT Jarai.
6
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Dạy tiếng Việt ở Việt Nam
1.1.1. Người học là người bản ngữ.
Như chúng ta biết thì tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam,
là tiếng mẹ đẻ của hơn 85% cư dân Việt đang sinh sống trên lãnh thổ và của
hơn ba triệu người Việt đang sinh sống và làm việc tại nước ngoài. TV cũng
là ngôn ngữ thứ hai của cộng đồng các dân tộc thiểu số tại Việt Nam.Và khi
nói đến cụm từ dạy TV với tư cách là TMĐ thì điều đầu tiên cần nghĩ đến là
chúng ta đang bàn đến việc dạy TV cho học sinh người Kinh. Ở nước ta, dạy
TV cho HS bản ngữ là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu trong việc phát triển
giáo dục và giữ gìn vốn ngôn ngữ của dân tộc.
Hiện nay, ở nhà trường phổ thông TV có cương vị là một môn học
chính thức, chúng ta cần thấy rằng nó có tư cách rất khác so với các môn học
khác như Toán, Sử…Sự khác nhau ở chỗ: một mặt, chúng ta có bộ môn khoa
học nghiên cứu về tiếng Việt thường gọi là “Việt ngữ học”. Bên cạnh đó môn
tiếng Việt có phần dạy về tri thức ngôn ngữ học với một tỉ lệ không nhiều,
nhằm cung cấp cho HS một số khái niệm cơ bản và thiết thực để giúp các em
có thể tự mình giải thích được những hiện tượng ngôn ngữ đơn giản về TMĐ
của mình và cũng giúp các em phần nào đỡ bỡ ngỡ khi bắt đầu vào học một
ngôn ngữ. Việc dạy và học TV rất được coi trọng, đây là điểm xuất phát ban
đầu giúp các em tiếp cận với tri thức khoa học và tri thức về ngôn ngữ của
mình. Chương trình dạy TV ở tiểu học được chia là hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất gồm các lớp 1,lớp 2, lớp 3. ở giai đoạn này nhiệm
vụ chủ yếu là hình thành những cơ sở ban đầu cho việc học đọc, học viết trên