Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Khái niệm và lịch sử bảo mật hệ thống
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Hoạt động của người quản trị hệ thống mạng phải đảm bảo các thông tin
trên mạng là tin cậy và sử dụng đúng mục đích, đối tượng đồng thời đảm bảo
mạng hoạt động ổn định, không bị tấn công bởi những kẻ phá hoại.
Có một thực tế là không một hệ thống mạng nào đảm bảo là an toàn
tuyệt đối, một hệ thống dù được bảo vệ chắc chắn đến mức nào thì cũng có lúc
bị vô hiệu hoá bởi những kẻ có ý đồ xấu.
I.1.1. Một số khái niệm và lịch sử bảo mật hệ thống
Trước khi tìm hiểu các vấn đề liên quan đến phương thức phá hoại và
các biện pháp bảo vệ cũng như thiết lập các chính sách về bảo mật, ta sẽ tìm
hiểu một số khái niệm liên quan đến bảo mật thông tin trên mạng Internet.
I.1.1.1. Một số khái niệm:
a) Đối tượng tấn công mạng (Intruder):
Là những cá nhân hoặc các tổ chức sử dụng các kiến thức về mạng và
các công cụ phá hoại (phần mềm hoặc phần cứng) để dò tìm các điểm yếu, lỗ
hổng bảo mật trên hệ thống, thực hiện các hoạt động xâm nhập và chiếm đoạt
tài nguyên mạng trái phép.
Một số đối tượng tấn công mạng là:
- Hacker: Là những kẻ xâm nhập vào mạng trái phép bằng cách sử dụng
các công cụ phá mật khẩu hoặc khai thác các điểm yếu của các thành phần truy
nhập trên hệ thống.
- Masquerader: Là những kẻ giả mạo thông tin trên mạng. Có một số
hình thức như giả mạo địa chỉ IP, tên miền, định danh người dùng ...
- Eavesdropping: Là những đối tượng nghe trộm thông tin trên mạng, sử
dụng các công cụ sniffer; sau đó dùng các công cụ phân tích và debug để lấy
được các thông tin có giá trị.
Những đối tượng tấn công mạng có thể nhằm nhiều mục đích khác nhau
như: ăn cắp những thông tin có giá trị về kinh tế, phá hoại hệ thống mạng có
chủ định, hoặc cũng có thể chỉ là những hành động vô ý thức, thử nghiệm các
chương trình không kiểm tra cẩn thận ...
262
Giáo trình đào tạo Quản trị mạng và các thiết bị mạng
Trung tâm Điện toán Truyền số liệu KV1
b) Các lỗ hổng bảo mật:
Các lỗ hổng bảo mật là những điểm yếu trên hệ thống hoặc ẩn chứa
trong một dịch vụ mà dựa vào đó kẻ tấn công có thể xâm nhập trái phép để thực
hiện các hành động phá hoại hoặc chiếm đoạt tài nguyên bất hợp pháp.
Nguyên nhân gây ra những lỗ hổng bảo mật là khác nhau: có thể do lỗi
của bản thân hệ thống, hoặc phần mềm cung cấp, hoặc do người quản trị yếu
kém không hiểu sâu sắc các dịch vụ cung cấp ...
Mức độ ảnh hưởng của các lỗ hổng là khác nhau. Có những lỗ hổng chỉ
ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ cung cấp, có những lỗ hổng ảnh hưởng
nghiêm trọng tới toàn bộ hệ thống ...
c) Chính sách bảo mật:
Là tập hợp các qui tắc áp dụng cho mọi đối tượng có tham gia quản lý
và sử dụng các tài nguyên và dịch vụ mạng.
Mục tiêu của chính sách bảo mật giúp người sử dụng biết được trách
nhiệm của mình trong việc bảo vệ các tài nguyên thông tin trên mạng , đồng
thời giúp các nhà quản trị thiết lập các biện pháp bảo đảm hữu hiệu trong quá
trình trang bị, cấu hình, kiểm soát hoạt động của hệ thống và mạng
Một chính sách bảo mật được coi là hoàn hảo nếu nó xây dựng gồm các
văn bản pháp qui, kèm theo các công cụ bảo mật hữu hiệu và nhanh chóng giúp
người quản trị phát hiện, ngăn chặn các xâm nhập trái phép.
I.1.1.2. Lịch sử bảo mật hệ thống:
Có một số sự kiện đánh dấu các hoạt động phá hoại trên mạng, từ đó nảy
sinh các yêu cầu về bảo mật hệ thống như sau:
- Năm 1988: Trên mạng Internet xuất hiện một chương trình tự nhân
phiên bản của chính nó lên tất cả các máy trên mạng Internet. Các chương trình
này gọi là "sâu". Tuy mức độ nguy hại của nó không lớn, nhưng nó đặt ra các
vấn đề đối với nhà quản trị về quyền truy nhập hệ thống, cũng như các lỗi phần
mềm.
- Năm 1990: Các hình thức truyền Virus qua địa chỉ Email xuất hiện phổ
biến trên mạng Internet.
- Năm 1991: Phát hiện các chương trình trojans.
263
Giáo trình đào tạo Quản trị mạng và các thiết bị mạng
Trung tâm Điện toán Truyền số liệu KV1
Cùng thời gian này sự phát triển của dịch vụ Web và các công nghệ liên
quan như Java, Javascipts đã có rất nhiều các thông báo lỗi về bảo mật liên
quan như: các lỗ hổng cho phép đọc nội dung các file dữ liệu của người dùng,
một số lỗ hổng cho phép tấn công bằng hình thức DoS, spam mail làm ngưng
trệ dịch vụ.
- Năm 1998: Virus Melisa lan truyền trên mạng Internet thông qua các
chương trình gửi mail của Microsoft, gây những thiết hại kinh tế không nhỏ.
- Năm 2000: Một loạt các Web Site lớn như yahoo.com và ebay.com bị
tê liệt, ngừng cung cấp dịch vụ trong nhiều giờ do bị tấn công bởi hình thức
DoS.
I.1.2. Các lỗ hổng và phương thức tấn công mạng chủ yếu
I.1.2.1. Các lỗ hổng
Như phần trên đã trình bày, các lỗ hổng bảo mật trên một hệ thống là
các điểm yếu có thể tạo ra sự ngưng trệ của dịch vụ, thêm quyền đối với người
sử dụng hoặc cho phép các truy nhập không hợp pháp vào hệ thống. Các lỗ
hổng cũng có thể nằm ngay các dịch vụ cung cấp như sendmail, web, ftp ...
Ngoài ra các lỗ hổng còn tồn tại ngay chính tại hệ điều hành như trong
Windows NT, Windows 95, UNIX hoặc trong các ứng dụng mà người sử dụng
thường xuyên sử dụng như word processing, các hệ databases...
Có nhiều tổ chức khác nhau tiến hành phân loại các dạng lỗ hổng đặc
biêt. Theo cách phân loại của Bộ quốc phòng Mỹ, các loại lỗ hổng bảo mật trên
một hệ thống được chia như sau:
- Lỗ hổng loại C: các lỗ hổng loại này cho phép thực hiện các phương
thức tấn công theo DoS (Denial of Services - Từ chối dịch vụ). Mức độ nguy
hiểm thấp, chỉ ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ, có thể làm ngưng trệ, gián
đoạn hệ thống; không làm phá hỏng dữ liệu hoặc đạt được quyền truy nhập bất
hợp pháp.
- Lổ hổng loại B: Các lỗ hổng cho phép người sử dụng có thêm các
quyền trên hệ thống mà không cần thực hiện kiểm tra tính hợp lệ nên có thể
dẫn đến mất mát hoặc lộ thông tin yêu cầu bảo mật. Mức độ nguy hiểm trung
bình. Những lỗ hổng này thường có trong các ứng dụng trên hệ thống.
264
Giáo trình đào tạo Quản trị mạng và các thiết bị mạng
Trung tâm Điện toán Truyền số liệu KV1
- Lỗ hổng loại A: Các lỗ hổng này cho phép người sử dụng ở ngoài cho
thể truy nhập vào hệ thống bất hợp pháp. Lỗ hổng này rất nguy hiểm, có thể
làm phá hủy toàn bộ hệ thống.
Hình sau minh họa các mức độ nguy hiểm và loại lỗ hổng tương ứng:
Hình 1.1: Các loại lỗ hổng bảo mật và mức độ ngưy hiểm
Sau đây ta sẽ phân tích một số lỗ hổng bảo mật thường xuất hiện trên
mạng và hệ thống.
a) Các lỗ hổng loại C
Các lỗ hổng loại này cho phép thực hiện các cuộc tấn công DoS.
DoS là hình thức tấn công sử dụng các giao thức ở tầng Internet trong bộ
giao thức TCP/IP để làm hệ thống ngưng trệ dẫn đến tình trạng từ chối người
sử dụng hợp pháp truy nhập hay sử dụng hệ thống. Một số lượng lớn các gói tin
được gửi tới server trong khoảng thời gian liên tục làm cho hệ thống trở nên
265
Giáo trình đào tạo Quản trị mạng và các thiết bị mạng
Trung tâm Điện toán Truyền số liệu KV1
quá tải, kết quả là server đáp ứng chậm hoặc không thể đáp ứng các yêu cầu từ
client gửi tới.
Các dịch vụ có lỗ hổng cho phép thực hiện các cuộc tấn công DoS có thể
được nâng cấp hoặc sửa chữa bằng các phiên bản mới hơn của các nhà cung
cấp dịch vụ. Hiện nay, chưa có một giải pháp toàn diện nào để khắc phục các lỗ
hổng loại này vì bản thân việc thiết kế giao thức ở tầng Internet (IP) nói riêng
và bộ giao thức TCP/IP đã chứa đựng những nguy cơ tiềm tàng của các lỗ hổng
này.
Ví dụ điển hình của phương thức tấn công DoS là các cuộc tấn công vào
một số Web Site lớn làm ngưng trệ hoạt động của web site này như:
www.ebay.com và www.yahoo.com.
Tuy nhiên, mức độ nguy hiểm của các lỗ hổng loại này được xếp loại C,
ít nguy hiểm vì chúng chỉ làm gián đoạn sự cung cấp dịch vụ của hệ thống
trong một thời gian mà không làm nguy hại đến dữ liệu và những kẻ tấn công
cũng không đạt được quyền truy nhập bất hợp pháp vào hệ thống.
Một lỗ hổng loại C khác cũng thường thấy đó là các điểm yếu của dịch
vụ cho phép thực hiện tấn công làm ngưng trệ hệ thống của người sử dụng
cuối. Chủ yếu hình thức tấn công này là sử dụng dịch vụ Web. Giả sử trên một
Web Server có những trang Web trong đó có chứa các đoạn mã Java hoặc
JavaScripts, làm "treo" hệ thống của người sử dụng trình duyệt Web của
Netscape bằng các bước sau:
- Viết các đoạn mã để nhận biết được Web Browers sử dụng Netscape.
- Nếu sử dụng Netscape, sẽ tạo một vòng lặp vô thời hạn, sinh ra vô số
các cửa sổ, trong mỗi cửa sổ đó nối đến các Web Server khác nhau.
Với một hình thức tấn công đơn giản này, có thể làm treo hệ thống trong
khoảng thời gian 40 giây (đối với máy client có 64 MB RAM). Đây cùng là
một hình thức tấn công kiểu DoS. Người sử dụng trong trường hợp này chỉ có
thể khởi động lại hệ thống.
Một lỗ hổng loại C khác cũng thường gặp đối với các hệ thống mail là
không xây dựng các cơ chế anti-relay (chống relay) cho phép thực hiện các
hành động spam mail. Như chúng ta đã biết, cơ chế hoạt động của dịch vụ thư
điện tử là lưu và chuyển tiếp. Một số hệ thống mail không có các xác thực khi
người dùng gửi thư, dẫn đến tình trạng các đối tượng tấn công lợi dụng các
266
Giáo trình đào tạo Quản trị mạng và các thiết bị mạng
Trung tâm Điện toán Truyền số liệu KV1