Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Kết quả xử lý cấp cứu, dự phòng chảy máu do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản bằng thắt vòng cao su qua nội soi và thuốc chẹn beta giao cảm không chọc lọc ở bệnh nhận xơ gan
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
===================
NGUYỄN MẠNH HÙNG
KẾT QUẢ XỬ LÝ CẤP CỨU, DỰ PHÒNG CHẢY MÁU DO
VỠ GIÃN TĨNH MẠCH THỰC QUẢN BẰNG THẮT VÒNG
CAO SU QUA NỘI SOI VÀ THUỐC CHẸN BETA GIAO
CẢM KHÔNG CHỌN LỌC Ở BỆNH NHÂN XƠ GAN
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
HÀ NỘI, 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN QUÂN Y
===================
NGUYỄN MẠNH HÙNG
KẾT QUẢ XỬ LÝ CẤP CỨU, DỰ PHÒNG CHẢY MÁU DO
VỠ GIÃN TĨNH MẠCH THỰC QUẢN BẰNG THẮT VÒNG
CAO SU QUA NỘI SOI VÀ THUỐC CHẸN BETA GIAO
CẢM KHÔNG CHỌN LỌC Ở BỆNH NHÂN XƠ GAN
Chuyên ngành: Nội tiêu hoá
Mã số: 62.72.01.43
LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS Bùi Văn Lạc
2. PGS.TS Vũ Văn Khiên
HÀ NỘI, 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Mạnh Hùng
LỜI CẢM ƠN
Tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban Giám đốc, Phòng sau đại
học, Bộ môn Nội tiêu hóa và các Thầy cô của Học viện Quân Y đã dành
cho tôi sự giúp đỡ tận tình trong thời gian học tập và nghiên cứu tại Học
viện.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa Thăm dò chức năng
Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thành nghiên cứu của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy cô trong hội đồng chấm luận án
các cấp đã đóng góp những ý kiến quý báu, sâu sắc và tỷ mỷ cho luận án
của tôi được hoàn thiện.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của tập thể Bộ môn – Khoa Nội
tiêu hóa, Khoa Thăm dò chức năng Bệnh viện Bạch Mai đã giúp cho tôi có
được số lượng bệnh nhân nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Bùi Văn Lạc và
PGS.TS. Vũ Văn Khiên, hai người thầy đã tận tâm giúp đỡ tôi suốt những
năm tháng qua từ khi xây dựng đề cương đến khi hoàn thiện luận án.
Tôi xin cảm ơn tất cả những người bệnh đã gửi gắm lòng tin đối với đội
ngũ thầy thuốc chúng tôi. Những người bệnh vừa là đối tượng, mục tiêu và
là động lực cho mọi nghiên cứu của y học.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn
bè và đồng nghiệp đã luôn dành cho tôi sự động viên giúp đỡ trong quá
trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Tác giả luận án
NGUYỄN MẠNH HÙNG
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xơ gan là một bệnh hay gặp trong các bệnh đường tiêu hoá nói chung và
trong các bệnh gan mạn tính nói riêng [7], [8]. Xơ gan có thể bị tử vong do 4
nguyên nhân chính sau: Chảy máu do giãn vỡ tĩnh mạch thực quản (TMTQ),
hôn mê gan do suy chức năng gan, viêm phúc mạc nhiễm khuẩn tự phát và
tiến triển thành ung thư gan, mà chủ yếu là ung thư biểu mô tế bào gan [23].
Tăng áp lực tĩnh mạch cửa sẽ đưa đến hình thành các búi giãn TMTQ và cổ
trướng [21], [22]. Các nghiên cứu về tiến triển tự nhiên của xơ gan cho biết:
Giãn TMTQ sẽ xuất hiện khoảng 30% ở bệnh nhân xơ gan còn bù và khoảng
60% xơ gan xơ gan mất bù [23], [66], [125], [139]. Tỷ lệ hình thành búi giãn
TMTQ hàng năm vào khoảng 8-10% [27] và búi giãn sẽ có xu hướng sẽ to dần
lên với tỷ lệ: 10-15%/ năm [26], [32], [113]. Do vậy, với những bệnh nhân xơ
gan có giãn TMTQ cần được nội soi định kỳ để đánh giá mức độ, sự tiến triển
của búi giãn TMTQ, đưa ra các biện pháp điều trị dự phòng thích hợp cho bệnh
nhân [64].
Chảy máu do giãn vỡ búi giãn TMTQ chiếm tỷ lệ 14-17% trong chảy
máu đường tiêu hóa trên [10], [11], [34] và là một trong những biến chứng
nguy hiểm nhất ở bệnh nhân xơ gan, đe dọa đến tính mạng của người bệnh và
nguy cơ tử vong rất cao nếu như không được điều trị kịp thời. Nguy cơ chảy
máu tiên phát ở bệnh nhân xơ gan có giãn TMTQ chiếm tỷ lệ: 12-30% [66]và
tỷ lệ tử vong giao động khoảng 30-70% [19]. Do vậy, Hội nghị đồng thuận về
tăng áp lực tĩnh mạch cửa tại Baveno (ITALIA) năm 2005 và Atlanta (Mỹ)
năm 2006 đã khuyến cáo: Chảy máu do giãn vỡ TMTQ là một cấp cứu tối
khẩn cấp, phải được điều trị kịp thời, để giảm nguy cơ tử vong do mất máu
nhiều [11], [24].
Ngày nay, điều trị cấp cứu chảy máu do vỡ giãn TMTQ có rất nhiều
phương pháp, bao gồm: Nội khoa, ngoại khoa, can thiệp mạch, nội soi điều trị
[27], [105]. Mỗi phương pháp có ưu, nhược điểm khác nhau và phụ thuộc vào
từng đơn vị cơ sở y tế. Với những bệnh viện được trang bị máy nội soi, thì nội
soi điều trị được ứng dụng nhiều hơn cả, bởi vì các phương pháp này dễ thực
hiện, đơn giản và có hiệu quả tốt trong cầm máu do vỡ TMTQ[9], [18], [19],
[29].Trong các thập kỷ 60-70, kỹ thuật nội soi tiêm xơ, đã được ứng dụng
rộng rãi trong điều trị CMTH cấp [12], [13], [30], [31], [55], [131], [134].
Tuy nhiên, kỹ thuật này còn có những biến chứng sau điều trị. Đến thập kỷ
80, kỹ thuật thắt TMTQ qua nội soi đã được ứng dụng trong lâm sàng, tỏ ra
ưu việt hơn so với tiêm xơ về: tỷ lệ cầm máu cao, ít biến chứng và thao tác
cũng đơn giản hơn. [41], [68], [70], [71], [72], [73], [126].
Trong các thập kỷ 90, đã có nhiều nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm búi
giãn TMTQ, yếu tố nguy cơ, các yếu tố liên quan đến các biện pháp điều trị
khác nhau. Năm 1991, Sarin và cs đã đưa ra khuyến cáo : Với bệnh nhân xơ
gan có giãn TMTQ độ II, III, có đường kính trên 5 mm, có nhiều dấu đỏ thì
được coi là có nguy cơ cao dễ bị CMTH và cần phải được điều trị dự phòng.
Các biện pháp điều trị dự phòng bao gồm : Thắt TMTQ dự phòng và sử dụng
thuốc chẹn Beta giao cảm không chọn lọc nhằm giảm ALTMC [106], [107],
[109]. Tại Việt Nam, đã có nghiên cứu về hiệu quả thắt TMTQ qua nội soi
cho bệnh nhân vỡ giãn TMTQ của Nguyễn Khánh Trạch, Mai Thị Hội,
Dương Hồng Thái... Nhưng số lượng nghiên cứu chưa nhiều, nghiên cứu
điều trị dự phòng CMTH do giãn vỡ TMTQ chưa được ứng dụng rộng rãi.
Ứng dụng những thành tựu khoa học trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài:
“Kết quả xử lý cấp cứu, dự phòng chảy máu do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản
bằng thắt vòng cao su qua nội soi và thuốc chẹn beta giao cảm không chọn
lọc ở bệnh nhân xơ gan”. Đề tài thực hiện với 2 mục tiêu:
1. Đánh giá kết quả xử lý chảy máu do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản
bằng thắt vòng cao su qua nội soi.
2. So sánh hiệu quả điều trị dự phòng tiên phát chảy máu do vỡ giãn tĩnh
mạch thực quản bằng thắt vòng cao su qua nội soi và thuốc propranolol ở bệnh
nhân xơ gan.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN VỀ BÖI GIÃN TĨNH MẠCH THỰC QUẢN
1.1.1. Tăng áp lực tĩnh mạch cửa và búi giãn tĩnh mạch thực quản ở bệnh
nhân xơ gan
1.1.1.1. Giải phẫu tĩnh mạch cửa
Tĩnh mạch cửa (TMC) còn gọi là tĩnh mạc gánh, có thân dài 6-9 cm,
đường kính 10-12mm, nó được tạo thành bởi 3 tĩnh mạch lớn [6].
- Tĩnh mạch lách dẫn máu ở lách và một phần ở dạ dày.
- TM mạc treo tràng trên dẫn máu ở ruột non và nửa phần ruột già.
- Tĩnh mạch mạc treo tràng dưới dẫn máu ở nửa trái ruột già.
Tĩnh mạch cửa (TMC) nhận máu của toàn bộ ống tiêu hoá và các tạng
trong ổ bụng để đưa về gan, do đó lượng máu đi qua đó rất lớn. Khi vào trong
gan, TMC chia thành 2 nhánh: Nhánh gan phải và nhánh gan trái, hai nhánh
này chia thành các nhánh nhỏ dần và cuối cùng phân nhỏ thành các xoang
mao mạch. Tại xoang gan, máu mao mạch được liên hợp, trao đổi, khử các
sản phẩm độc, sau đó tập trung vào tĩnh mạch trung tâm tiểu thuỳ. Các tĩnh
mạch trung tâm tiểu thùy lại tập trung lại thành các tĩnh mạch trên gan nhỏ,
rồi đổ vào 3 tĩnh mạch trên gan lớn. Ba tĩnh mạch này hợp nhất thành thân
tĩnh mạch trên gan và đổ vào tĩnh mạch chủ dưới [6].
1.1.1.2. Sinh lý bệnh tăng áp lực tĩnh mạch cửa
Tĩnh mạch cửa chỉ là một tĩnh mạch chức phận chứ không phải là một hồi
huyết quản, nó có chức năng nhận máu của hầu hết các tạng trong ổ bụng và
ống tiêu hoá, qua gan để liên hợp, chuyển hoá, loại bỏ chất độc rồi đổ vào
tuần hoàn chung. Áp lực trong TMC phụ thuộc vào 2 yếu tố: Sức cản mạch
máu trong, ngoài gan và lưu lượng máu vùng cửa [21], [22].
Những bệnh nhân xơ gan sẽ xuất hiện áp suất xoang và tăng gradient
áp suất cửa, mà hậu quả này sẽ đưa đến sự khác nhau về áp suất giữa TMC,
tĩnh mạch trên gan và tĩnh mạch chủ dưới. Tăng áp lực cửa (Portal
hypertension) được xác định khi áp lực TMC trên 12 mmHg [37], [52], [93].
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi áp lực TMC trên 12 mmHg sẽ dẫn đến
nguy cơ cao làm giãn vỡ TMTQ gây chảy máu đường tiêu hoá.
Hình 1.1 . Mối liên quan giữa áp lực tĩnh mạch cửa, mức độ giãn tĩnh mạch
thực quản và chảy máu đƣờng tiêu hoá
* Nguồn: Theo Loannou GN.(2003) [82].
1.1.1.3. Hậu quả của tăng áp lực tĩnh mạch cửa
Khi áp lực TMC tăng lên, máu sẽ ứ lại trong hệ thống cửa, hình thành
các vòng nối được thể hiện trên lâm sàng, gồm có:
- Vòng nối trên: Nối từ tĩnh mạch vành vị, qua tĩnh mạch dạ dày ngắn
(hệ cửa) đến mạng lưới tĩnh mạch thực quản tâm vị, màng lưới tĩnh mạch
dưới niêm mạc rồi đổ vào tĩnh mạch đơn, tĩnh mạch chủ trên (hệ chủ).
Áp lực bình thường Tăng áp TMC CMTH do vỡ TMTQ
Vỡ búi giãn
Giãn tĩnh mạch
thực quản
Thực quản bình thường
MỐI LIÊN QUAN GIỮA ÁP LỰC TMC VỚI BÖI GIÃN VÀ CHẢY MÁU TIÊU HOÁ
- Vòng nối dưới: Nối tĩnh mạch trực tràng trên của tĩnh mạch mạc treo
tràng dưới (hệ cửa) với các tĩnh mạch trực tràng giữa, dưới của tĩnh mạch
chậu trong (hệ chủ).
- Vòng nối trước: Nối tĩnh mạch dây chằng tròn, tĩnh mạch cạnh rốn
(hệ cửa) với tĩnh mạch thượng vị, tĩnh mạch vú trong (hệ chủ).
- Vòng nối sau: Dẫn máu từ hệ tĩnh mạch lách (hệ cửa) sang tĩnh mạch
thành bụng sau như tĩnh mạch thận trái, tĩnh mạch hoành (hệ chủ) [6].
Hình 1.2. Sơ đồ các vòng nối tĩnh mạch ở bệnh nhân xơ gan
*Nguồn: Theo Rikkere. (1997) [110]
Chảy máu tiêu hoá do vỡ giãn TMTQ là một trong những biến chứng
hay gặp nhất của hội chứng tăng áp lực TMC ở bệnh nhân xơ gan và tỷ lệ tử
vong rất cao, nếu không được điều trị kịp thời. Giãn tĩnh mạch còn có thể
xuất hiện ở cả dạ dày- tá tràng, chủ yếu vùng phình vị. Tuy nhiên, tần suất
giãn tĩnh mạch dạ dày chiếm tỷ lệ thấp (khoảng 5%) so với tần suất giãn
TMTQ (chiếm 95%). Chảy máu tiêu hoá cũng có thể gặp ở bệnh nhân có vỡ
giãn các vòng nối tĩnh mạch trực tràng, nhưng mức độ chảy máu không nhiều
so với CMTH do vỡ giãn TMTQ [5 ], [130].
1.1.1.4. Tiến triển tự nhiên búi giãn TMTQ, tỷ lệ chảy máu và tỷ lệ tử vong
Thống kê nghiên cứu trên thế giới cho thấy: Nguy cơ hình thành búi
giãn TMTQ khoảng 30% ở bệnh nhân xơ gan còn bù và khoảng 60% bệnh
nhân xơ gan mất bù [17], [54]. Buttaglia G và cs đã tập hợp 22 thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên ở 1228 bệnh nhân xơ gan có giãn TMTQ nhưng không
được điều trị đặc hiệu, với thời gian theo dõi trong 2 năm đã cho biết: Tỷ lệ
chảy máu do vỡ TMTQ giao động 15%- 68% (trung bình 32%) và tỷ lệ tử
vong từ 10%-73% (trung bình 34%).
Nguy cơ CMTH có liên quan đến kích thước của búi giãn TMTQ và
chức năng gan. Pagliaro và cs [102] nghiên cứu tiến triển tự nhiên búi giãn
TMTQ, tỷ lệ CM và tỷ lệ tử vong thấy rằng: búi giãn càng to (độ III) thì nguy
cơ CMTH càng lớn và tỷ lệ tử vong cũng tăng cao.
1.1.2. Đánh giá búi giãn
1.1.2.1. Phát hiện búi giãn
Trong giai đoạn đầu ở bệnh nhân xơ gan (bệnh nhân xơ gan còn bù) thì
các triệu chứng lâm sàng thường rất nghèo nàn và khó phát hiện nếu như
bệnh nhân không được làm xét nghiệm đầy đủ. Nội soi dạ dày- tá tràng đóng
vai trò rất quan trọng giúp phát hiện và đánh giá đúng mức về mức độ của búi
giãn TMTQ. Trong các thập kỷ 60-70 của thế kỷ 20, để phát hiện các búi giãn
TMTQ người ta thường chụp X-Quang thực quản có uống Barite, trước đó có
thể cho uống lòng trắng trứng để búi giãn hiện rõ hơn [20], [24]. Phương
pháp này cho hiệu quả không cao, có thể gây cảm giác khó chịu cho bệnh
nhân, do vậy ngày nay phương pháp này không còn được ứng dụng nhiều.
Cách phát hiện thông dụng và đơn giản nhất là nội soi dạ dày thực quản
sẽ cho biết về: Kích thước, vị trí, mầu sắc và mức độ giãn TMTQ [14], [15],
[16]. Gần đây, tại Việt Nam tác giả Đào Văn Long đã sử dụng siêu âm nội soi
và siêu âm nội soi doppler cho phép phát hiện sớm các búi giãn TMTQ, búi
giãn tĩnh mạch ở dạ dày, ngay khi các búi giãn này mới hình thành, kích
thước còn khá nhỏ, nằm dưới lớp niêm mạc [5]. Đây là phương pháp hiện đại,
ngoài việc đánh giá hình thái búi giãn còn có thể đánh giá về huyết động học
tại búi giãn TMTQ. Tuy nhiên, kỹ thuật này chưa được ứng dụng nhiều ở
nước ta, do nhiều bệnh viện trong nước chưa được cung cấp các thiết bị này.
1.1.2.2. Phân loại mức độ giãn tĩnh mạch thực quản
Phân loại mức độ giãn TMTQ là rất cần thiết vì nó liên quan chặt chẽ
đến tiên lượng,điều trị cũng như đánh giá nguy cơ chảy máu của búi giãn
TMTQ. Có một số cách phân loại búi giãn TMTQ đã được áp dụng [19], [20].
- Leberec chia làm 2 loại: Búi giãn < 5 mm và búi giãn > 5 mm.
- Sherlock [133] chia làm 3 độ : Độ I : Các cột tĩnh mạch giãn nhỏ rời
rạc và khi bơm hơi căng thì búi giãn biến mất. Độ II : Các cột tĩnh mạch giãn
lớn hơn, bơm hơi không mất và không có sự thông thương giữa các cột tĩnh
mạch này. Độ III : Các cột tĩnh mạch giãn lớn và thông thương với nhau, có
chỗ không còn thấy niêm mạc thực quản bình thường nữa.
- Pascal và Parquet [140] chia làm 4 mức độ : Độ 1: Búi giãn có đường
kính < 5 mm, còn niêm mạc lành; Độ 2: Đường kính > 5 mm, các búi giãn có
nhánh nối với nhau nhưng vẫn còn niêm mạc lành; Độ 3: Giãn to thành đám
và giữa chúng không còn khoảng trống; Độ 4: Giống độ 3 nhưng chiếm gần
hết khẩu kính của thực quản
- Dagradi [123] chia búi giãn làm 5 mức độ: Độ 1: Đường kính búi
giãn ≤ 2 mm; Độ 2, 3, 4: Đường kính búi giãn tương ứng 3- 4-5 mm và độ 5
giãn bằng hoặc to hơn độ 4, trên thành có các dấu đỏ.
TMTQ độ I TMTQ độ II TMTQ độ III TMTQ độ III dấu đỏ(+)
Ảnh 1.1 . Phân loại mức độ giãn tĩnh mạch thực quản theo hội
nghiên cứu tăng áp lực tĩnh mạch cửa Nhật Bản
- Hội nghiên cứu tăng áp lực tĩnh mạch của Nhật Bản chia kích thước
búi giãn làm 3 độ [53], [123]. Tại Việt Nam cũng đã ứng dụng bảng phân loại
này trong lâm sàng. Cách phân chia cụ thể sẽ trình bày trong chương 2.
1.1.2.3. Dấu hiệu chảy máu do vỡ búi giãn tĩnh mạch thực quản
Khi nội soi dạ dày- thực quản không phải lúc nào ta cũng phát hiện
thấy TMTQ đang chảy máu. Vì đặc tính chảy máu ở đây là tự cầm khi áp lực
trong búi giãn giảm đi, do vậy nhiều khi chẩn đoán phải dựa vào các dấu
hiệu gián tiếp khi nội soi. Có 4 tình huống mà chỉ cần 1 tình huống cũng được
chẩn đoán là chảy máu do vỡ các búi giãn TMTQ [15], [16]:
- Tại thành các búi giãn máu đang chảy thành tia.
- Chảy máu lan tràn trong TQ, nhưng không thấy tổn thương ở dạ dày.
- Thấy cục máu đông, hoặc nút tiểu cầu tại thành búi giãn TMTQ.
- Không thấy tổn thương ở dạ dày- tá tràng, có giãn TMTQ độ II- III.
Với những trường hợp CMTH cấp tính, các dấu hiệu chảy máu thường
rất điển hình, dễ chẩn đoán. Một số trường hợp, bệnh nhân có vỡ TMTQ, nhưng
khi đến viện đã tự cầm và trong trường hợp này việc chẩn đoán cần dựa rất
nhiều vào lâm sàng, xét nghiệm cận lâm sàng và nội soi dạ dày, tá tràng khi
điều kiện toàn thân cho phép [15], [16].
1.1.3. Tiêu chuẩn đánh giá búi giãn tĩnh mạch thực quản có nguy cơ cao
dễ bị chảy máu đƣờng tiêu hoá.
Ngày nay, nhiều nghiên cứu trên thế giới đều thừa nhận rằng việc điều
trị cấp cứu CM do giãn vỡ TMTQ là những biện pháp điều trị tạm thời, hoặc
là những điều trị trước mắt. Việc điều trị lâu dài là phải dựa trên đặc điểm
sinh lý bệnh của bệnh lý xơ gan và tình trạng búi giãn TMTQ. Nhiều tác giả
trên thế giới cũng đã áp dụng các biện pháp điều trị dự phòng cho bệnh nhân
xơ gan có giãn TMTQ và có nguy cơ cao bị chảy máu từ các búi giãn này
[25], [49], [57], [61], [84]. Hội nghị đồng thuận điều trị dự phòng CMTH do
vỡ TMTQ đều khuyến cáo nên điều trị dự phòng (thắt TMTQ hoặc dùng
thuốc chẹn Beta không chọn lọc) cho những bệnh nhân có nguy cơ dễ chảy
máu đường tiêu hoá do vỡ TMTQ.
Tiêu chuẩn để chẩn đoán búi giãn TMTQ có nguy cơ cao dễ chảy máu
đường tiêu hoá đã được Hiệp hội gan mật Châu Á Thái Bình Dương tổ chức
tại New Deli (Ấn Độ) năm 2005 khuyến cáo như sau: Búi giãn có kích thước
lớn (Độ II, III), kích thước búi giãn trên 5 mm, có nhiều dấu đỏ hoặc vạch đỏ
trên búi giãn TMTQ. Các “dấu đỏ” trên thành búi giãn bao gồm những tổn
thương như: Vạch đỏ, ổ máu tụ, dấu đỏ...Đây là những yếu tố liên quan đến
nguy cơ chảy máu đường tiêu hoá do vỡ búi giãn TMTQ.
1.2. CÁC PHƢƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CẤP CỨU CHẢY MÁU DO VỠ BÖI GIÃN
TĨNH MẠCH THỰC QUẢN
1.2.1. Điều trị bằng nội khoa
Đối với bệnh nhân CMTH cấp do vỡ giãn TMTQ được điều trị nội
khoa thường chỉ áp dụng cho các tuyến cơ sở khi chưa được trang bị máy nội
soi, để thực hiện can thiệp điều trị [58]. Tuy nhiên, với những bệnh nhân có
CMTH nặng thì điều trị nội khoa và hồi sức tích cực đóng vai trò hết sức quan
trọng, nếu bệnh nhân được điều trị kịp thời, sẽ giảm được nguy cơ tử vong.
Khuyến cáo của Hội nghị đồng thuận điều trị CMTH do vỡ TMTQ đưa ra yêu
cầu: Cần hồi sức tích cực trước khi can thiệp nội soi, đảm bảo tốt về huyết
động (mạch, huyết áp và xét nghiệm: Huyết sắc tố > 80 g/l).
Điều trị nội khoa tích cực cũng được khuyến cáo nên dùng cho các
bệnh nhân quá già yếu, có các bệnh lý tim mạch hoặc hô hấp mà không thể
điều trị qua nội soi hoặc phẫu thuật.
1.2.1.1. Vai trò thuốc vận mạch trong điều trị chảy máu do vỡ TMTQ
a)Vai trò của Vasopressin
Vasopressin với bản chất là hocmon thuỳ sau tuyến yên có tác dụng co
mạch, làm giảm được áp lực TMC và từ đó cũng làm giảm được áp lực tại
tĩnh mạch lách. Vasopressin được giới thiệu vào năm 1956, nhưng chỉ những
năm 80 trở lại đây nó mới được sử dụng rộng rãi để điều trị chảy máu cấp do
vỡ giãn TMTQ.
Burroughs AK [35] đã tổng hợp 15 nghiên cứu của các tác giả khác
nhau trên thế giới sử dụng Vasopressin cho 417 trường hợp CMTH do vỡ
giãn TMTQ và kết quả cho thấy có 209 trường hợp có hiệu quả cầm máu, đạt
tỷ lệ khoảng 50%. Trong 15 thử nghiệm này, có 4 thử nghiệm có so sánh với
nhóm không điều trị (placebo) và kết quả cho thấy dùng Vasopressin làm
giảm có ý nghĩa nguy cơ CMTH, nhưng không làm giảm tỷ lệ tử vong so với
nhóm dùng giả dược (placebo).
Các thống kê cũng cho thấy có 45% các trường hợp có tác dụng phụ
khi dùng Vasopressin. Các tác dụng phụ bao gồm như: Đau bụng, cơn đau
thắt ngực, hoại thư da...và thậm chí có thể đột quỵ, do vậy có BN không thể
tiếp tục liệu trình với Vasopressin. Để khắc phục các nhược điểm của
Vasopressin, người ta phối hợp Nitroglycerrin dùng phác đồ kết hợp:
Vasopressin với Nitroglycerin cho kết quả tốt hơn dùng Vasopressin đơn
thuần: Kiểm soát tốt chảy máu TQ và giảm tác dụng phụ của thuốc[33]. Ngày
nay, người ta dùng Glycerin là một chất tổng hợp có tác dụng hiệu quả tốt
hơn trong cầm máu và hạn chế tác dụng phụ của Vasopressin.
b) Vai trò của Terlipressin
Trong các thập niên gần đây, nhờ có sự phát triển không ngừng của
dược học, đã có nhiều loại thuốc mới ứng dụng trong điều trị chảy máu do
giãn vỡ TMTQ. Terlipressin (biệt dược: Glypressin) một loại thuốc co mạch
đã được ứng dụng nhiều trong điều trị chảy máu do vỡ TMTQ. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy: Terlipressin làm giảm 34% tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân
CMTH do vỡ giãn TMTQ. Sử dụng Terlipressin sớm sẽ làm giảm lượng máu
chảy và giúp cho việc thực hiện thủ thuật nội soi tốt hơn [83], tuy nhiên hiện
nay Terlipressin mới chỉ được ứng dụng nhiều tại châu Âu. Tại Mỹ thì
Terlipressin chưa được sử dụng trong lâm sàng.
Hiện tại có nhiều quốc gia tại châu Á cũng đã sử dụng Terlipressin
trước và sau khi điều trị nội soi cho BN xơ gan có chảy máu do vỡ giãn
TMTQ. Nghiên cứu của Niazi MAK sử dụng Terlipressin tại Ấn độ cho 60
bệnh nhân chảy máu do vỡ TMTQ và kết quả cho biết: Có 53/60 (88%) bệnh
nhân cầm máu. Chỉ có 4/60 (6,6%) bệnh nhân phải đặt bóng chèn thực quản
(Sengstaken-Blakemore) và 3 bệnh nhân (5%) phải tiêm xơ.
Tại Việt Nam, đã có một số bệnh viện sử dụng Terlipressin cho bệnh
nhân xơ gan có biến chứng chảy máu do vỡ giãn TMTQ và đã mang lại hiệu
quả tốt, giảm tỷ lệ tử vong. Ngoài việc tham gia làm giảm áp lực TMC,
Terlipressin tham gia vào điều chỉnh hội chứng gan thận do xơ gan gây nên.
Tuy nhiên, giá thành của Terlipressin còn đắt, do vậy chỉ sử dụng ở các bệnh
viện lớn ở trong nước.
c) Somatostatin và chất tổng hợp
Somatostatin bản chất là một hocmon tự nhiên tetradecapeptide có 14
axít amin. Octreotide là chất tổng hợp octapeptide của Somatostatin có chứa 4
axít amin. Somatostatin điều trị chảy máu TMTQ vì nó có khả năng làm giảm
áp lực TMC, giảm áp lực bên trong tĩnh mạch thực quản và làm giảm lưu
lượng máu trở về tạng [33]. Hiệu quả cầm máu khoảng 70-80%, các chất này
ít gây ra tác dụng phụ hơn so với Vasopressin.
Liều dùng: Somatostatin tiêm tĩnh mạch 250 g/ giờ trong 2- 4 ngày.
Otreotide được cho truyền tĩnh mạch 25-50g/ giờ trong 2- 4 ngày.
Borroughs AK [35] đã tổng hợp 23 nghiên cứu của các tác giả khác
nhau về thử nghiệm lâm sàng dùng Somatostatin và Octreotide cho các bệnh
nhân chảy máu do vỡ giãn TMTQ. Hiệu quả cầm máu của Somatostatin và
Octreotide đạt được tương đương với Glycerrin đơn thuần.