Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Kết hợp lời Giảng bình của Giáo viên, học sinh trong giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT
PREMIUM
Số trang
136
Kích thước
761.7 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1171

Kết hợp lời Giảng bình của Giáo viên, học sinh trong giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

VŨ THẾ CÔNG

KẾT HỢP LỜI GIẢNG BÌNH

CỦA GIÁO VIÊN, HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC

TÁC PHẨM V¨n ch­¬ng ë tr­êng thpt

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Thái Nguyên, năm 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

VŨ THẾ CÔNG

KẾT HỢP LỜI GIẢNG BÌNH

CỦA GIÁO VIÊN, HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC

TÁC PHẨM V¨n ch­¬ng ë tr­êng thpt

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học văn

MÃ SỐ: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THẾ PHIỆT

Thái Nguyên, năm 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Xin chân thành cảm ơn PGS.TS TRẦN THẾ PHIỆT người đã tận

tâm hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, làm luận văn.

Xin cảm ơn quý lãnh đạo, quý thầy cô, các nhà khoa học của trường

Đại học sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tác giả hoàn thành luận

văn theo đúng kế hoạch.

Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo, tập thể cán bộ giáo

viên, nhân viên cùng các em học sinh trường THPT Hồng Quang, trường

THPT Hà Bắc và các trường khác trên địa bàn tỉnh Hải Dương, cũng như sự

ủng hộ của bạn bè đồng nghiệp và gia đình trong suốt thời gian học tập,

nghiên cứu.

Hy vọng được chia sẻ kinh nghiệm cùng với đồng nghiệp và những

người quan tâm đến công việc dạy học văn trước xu thế hội nhập, phát triển

của nền giáo dục Việt Nam.

Thái Nguyên, tháng 05 năm 2012

Tác giả

Vũ Thế Công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung

thực và chưa được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Vũ Thế Công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐHSP : Đại học sư phạm

HS : Học sinh

GV : Giáo viên

THPT : Trung học phổ thông

THCS : Trung học cơ sở

SGK : Sách giáo khoa

SGV : Sách giáo viên

TS : Tiến sĩ

GS : Giáo sư

NXB : Nhà xuất bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

i

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Danh mục từ, cụm từ viết tắt

Mục lục ............................................................................................................i

PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................1

PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 12

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIẢNG BÌNH

TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở NHÀ TRƯỜNG

PHỔ THÔNG ............................................................................................... 12

1.1. Cơ sở lí luận ........................................................................................12

1.1.1. Những cơ sở khẳng định sự cần thiết lời giảng bình của giáo

viên, học sinh trong giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPT. .......12

1.1.2. Những ưu thế và hạn chế đối với lời giảng bình của giáo viên. ....26

1.2. Thực trạng việc kết hợp lời giảng bình của giáo viên, học sinh trong

giờ học tác phẩm văn chương. ....................................................................27

1.2.1. Khảo sát tình hình vận dụng kết hợp lời giảng bình của giáo

viên, học sinh trong giờ dạy học tác phẩm văn chương...........................27

1.2.2. Đánh giá thực trạng việc vận dụng kết hợp lời giảng bình của

giáo viên, học sinh trong giờ dạy học tác phẩm văn chương. ..................31

Tiểu kết chương 1.......................................................................................35

Chương 2. NHỮNG BIỆN PHÁP KẾT HỢP LỜI GIẢNG BÌNH CỦA

GIÁO VIÊN, HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC TÁC PHẨM VĂN

CHƯƠNG ..................................................................................................... 36

2.1. Những nguyên tắc kết hợp lời giảng bình của giáo viên, học sinh

trong giờ học tác phẩm văn chương............................................................36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ii

2.1.1. Giảng bình phải được thực hiện dưới ánh sáng của lí thuyết dạy

học văn hiện đại - Tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương.....................36

2.1.2. Giảng bình phải được thực hiện từ hai phía: giáo viên và học

sinh, được đặt dưới sự điều khiển, định hướng của giáo viên..................38

2.1.3. Giảng bình chỉ được thực hiện khi cần thiết (đúng thời điểm,

phù hợp với đối tượng văn bản và đối tượng tiếp nhận)..........................39

2.1.4. Giảng bình có thể thực hiện ở tất cả các khâu: trước, trong và

sau giờ lên lớp. Ở các hình thức nói và viết...với mục đích giúp học

sinh bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình. ................................................40

2.1.5. Giảng bình phải được đặt trong mối quan hệ với các phương

pháp, biện pháp dạy học khác một cách hài hoà, tinh tế..........................41

2.2. Những biện pháp kết hợp lời giảng bình của giáo viên, học sinh

trong giờ học tác phẩm văn chương............................................................42

2.2.1. Chọn yếu tố then chốt để bình.......................................................42

2.2.2. Lời bình phải làm nổi bật cái hay của văn thơ...............................44

2.2.3. Giảng bình phải tính đến tầm đón nhận của học sinh ....................46

2.2.4. Lời bình phải hướng tới việc khơi gợi những liên tưởng tích cực,

đưa học sinh nhập thân vào tác phẩm .....................................................48

2.2.5. Lời giảng bình có tác dụng nêu vấn đề, tạo những tình huống để

học sinh suy nghĩ, tìm tòi, tranh luận, cắt nghĩa các vấn đề đặt ra trong

tác phẩm.................................................................................................49

2.2.6. Tổ chức hướng dẫn học sinh chuẩn bị cho giảng, bình trước giờ

học tác phẩm văn chương. ......................................................................50

2.2.7. Tổ chức hướng dẫn học sinh giảng bình trong giờ học tác phẩm

văn chương.............................................................................................51

2.2.8. Tổ chức hướng dẫn học sinh giảng bình sau giờ học tác phẩm

văn chương.............................................................................................58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

iii

2.2.9. Giảng bình trong mối quan hệ với các phương pháp dạy học khác.....60

Tiểu kết chương 2.......................................................................................62

Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM .................................................. 63

3.1. Mục đích thực nghiệm.........................................................................63

3.2. Đối tượng, địa bàn thực nghiệm...........................................................63

3.3. Cách thức, phương pháp thực nghiệm..................................................64

3.4. Quy trình tiến hành thực nghiệm. ........................................................64

3.5. Chọn giáo viên thực nghiệm ................................................................64

3.6. Tiến trình thực nghiệm ........................................................................64

3.7. Kết quả thực nghiệm............................................................................92

3.8. Một số kết luận rút ra từ thực nghiệm ..................................................94

PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................... 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 100

PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương không chỉ là vấn đề

thời sự - khoa học ở nước ta nhiều năm qua mà còn là mối bận tâm chung của

nhiều quốc gia trên thế giới. Nguyên nhân sâu xa không chỉ xuất phát từ sứ

mệnh lớn lao của môn Ngữ văn trong nhà trường hay từ sự cần thiết phải tăng

cường “ chất nhân văn” cho con người trong thời đại công nghệ số mà còn bắt

nguồn từ sự phong phú phức tạp của các khuynh hướng hiện đại hoá phương

pháp dạy học văn.

Bước vào đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo

hướng học sinh là bạn đọc sáng tạo, giảng bình lại trở trành vấn đề thời sự.

Một số giáo viên đã phủ nhận giảng bình, hoặc hoài nghi, hoặc rụt rè trong

việc sử dụng phương pháp này. Một số ý kiến có phần quyết liệt hơn, họ cho

rằng: cần phải “khai tử” giảng bình, bởi lẽ sử dụng giảng bình là quay lại lối

dạy học cũ: áp đặt, thuyết giảng, “mớm” kiến thức… và như thế là vi phạm

nguyên tắc đổi mới phương pháp dạy học văn. Nhưng lại có ý kiến cho rằng:

“giờ giảng văn dứt khoát phải có những đoạn diễn giảng làm rung động tâm

hồn các em, làm các em say sưa thích thú”…

Nhiều người cũng đặt lại vấn đề: nên quan niệm giảng bình là một

phương pháp, hay chỉ nên gọi là một biện pháp, một hoạt động trong giờ học

tác phẩm văn chương. Những ý kiến về vấn đề này cho đến nay vẫn chưa

hoàn toàn thống nhất.

Bấy nhiêu vấn đề đặt ra đã cho khó thấy khó khăn, lúng túng mà nhiều

giáo viên đang gặp phải trong việc nhận thức, lựa chọn và vận dụng phương

pháp giảng bình vào việc dạy học tác phẩm văn chương. Những câu hỏi đặt ra:

Có nên dùng giảng bình trong dạy học văn hay không? Nếu dùng, thì ở mức độ

nào? Làm thế nào để giờ học tác phẩm văn chương không trở nên khô khan,

nặng nề, mất đi “bản chất nghệ thuật kì diệu” của nó?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2

Vì vậy, việc sử dụng giảng bình như thế nào cho có hiệu quả trong giờ

học tác phẩm văn chương hiện nay là một vấn đề rất đáng quan tâm.

Từ những lí do cơ bản trên đã thôi thúc chúng tôi lựa chọn, nghiên cứu đề

tài : “Kết hợp lời giảng bình của giáo viên, học sinh trong giờ học tác phẩm

văn chương ở nhà trường phổ thông” để xác định lại cho đúng giảng bình

cần thiết đến mức độ nào, có thể sử dụng như thế nào khi đi vào một tác phẩm

cụ thể… với mong muốn góp phần giải quyết thực trạng nêu trên của dạy học

tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông hiện nay.

2. Lịch sử vấn đề.

2.1. Bình văn, thơ là một hoạt động tinh thần ra đời từ rất sớm trong đời

sống xã hội và là một nhu cầu tất yếu làm phong phú đời sống văn học của

dân tộc ta.

Lịch sử giảng văn ở nước ta đã có trên 100 năm. Tuy nhiên, cho đến

những năm đầu của thập kỷ 80 của thế kỷ XX khi đất nước ta đang bước vào

thời kỳ đổi mới với công cuộc cải cách giáo dục thì giảng văn trong nhà

trường và trong các quan điểm tiêu biểu chủ yếu vẫn chỉ là công việc của

thầy. Cũng có ý kiến cho rằng đổi mới phương pháp và cách thức tổ chức giờ

giảng văn theo hướng phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của học

sinh nhưng đó mới chỉ là một vài điểm sáng trong bức tranh chung in đậm vai

trò người thầy.

2.1.1. Thời phong kiến, giảng văn là giảng Hán văn, lối giảng văn thời này

là lối “bình văn”, “giảng sách” của các nhà Nho. “Bình văn” là phương pháp

dạy cho trò thực hành các kiểu bài văn có tính mô phỏng, chế tác theo thể thức,

quy cách của các thể loại văn bản Hán văn. Còn “giảng sách” là giảng dạy các

bộ Tứ thư, Ngũ kinh- những sách kinh điển của Nho học, nhà trường Hán học.

Theo giáo sư Đặng Thai Mai, nguyên tắc ngự trị trong cách dạy đạo lý văn

chương thời kỳ này là nguyên tắc quyền uy. Lời nói, sách vở của thánh hiền, của

nhà Nho ngày xưa được tôn trọng như là chân lý tuyệt đối.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3

Khi “đức thánh” đã dạy rằng: “ tiên nho đã giảng rằng” thì “cậu học

trò chớ suy nghĩ, bàn bạc, phê phán gì nữa. Chắp tay lạy, cúi đầu xuống và

tụng niệm cho kỹ vào để có dịp thì cứ chép lại làm lời của anh”. Với nguyên

tắc ấy thì việc giảng dạy văn học đúng là chỉ thuộc về người thầy, còn học trò

chỉ có nhiệm vụ “nghe thầy giảng, học thuộc lòng, nhớ suốt đời, nhai vào,

nhả ra”.

2.1.2. Đến thời thuộc Pháp, giảng dạy văn chủ yếu là giảng Pháp văn,

về sau có thêm Việt văn. Vấn đề giảng văn - giảng quốc văn ở nhà trường Âu

học chỉ thực sự bắt đầu khi Quốc văn trích diễm (1925) của Dương Quảng

Hàm - cuốn sách giáo khoa đầu tiên của môn Việt văn - xuất hiện. Trong công

trình này, lần đầu tiên xuất hiện thuật ngữ giảng văn và khái niệm phương

pháp giảng văn. Giảng văn trong quan niệm của Dương Quảng Hàm được gọi

là “giảng nghĩa bài” và phương pháp giảng văn Dương Quảng Hàm thực chất

là phương pháp giảng nghĩa: phát biểu đại ý và cách bố cục của bài văn, nói

rõ các ý tứ có quan hệ thế nào, cắt nghĩa kĩ về sự chọn tiếng, về những chỗ lời

văn bóng bẩy, về ý nghĩa các chữ nho để cho các học trò giầu thêm các danh

từ về văn chương và khoa học thông thường, cùng am hiểu các phép tắc chính

về cú pháp của quốc văn. Nhân sự giảng văn, nói cho học trò biết các điều đại

cương về các lối vận văn và tản văn chính của ta và các phép tắc chính về mỗi

lỗi ấy, cùng sự trạng và công trước tác của các nhà thi sĩ, văn sĩ có tiếng của

ta. Như vậy, phương pháp giảng văn của Dương Quảng Hàm thực chất vẫn

chỉ là phương pháp của thầy. Thầy cảm, hiểu tác phẩm rồi truyền thụ, giảng

giải cho học sinh. Học trò vẫn chỉ là đối tượng thụ động lắng nghe, ghi chép

theo những lời thầy giảng.

2.1.3. Sau Cách mạng tháng Tám, cùng với sự ra đời của nhà trường

cách mạng, vấn đề dạy học tác phẩm văn chương đã được chú ý nhiều hơn và

được nghiên cứu từ nhiều góc độ. Nhiều công trình, chuyên luận của các nhà

khoa học, nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học ra đời: Giảng văn Chinh phụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4

ngâm (1950) của Đặng Thai Mai; Một số kinh nghiệm giảng dạy văn học ở

cấp III (1963) của Trương Dĩnh – Vũ Ngọc Khánh – Phan Trọng Luận …;

Giáo trình phương pháp giảng dạy văn học (1963) của Bùi Hoàng Phổ -

Hoàng Lân – Quách Hy Dong - Nguyễn Gia Phương ( Đại học Sư phạm Hà

Nội); Rèn tư duy qua giảng dạy văn học (1969) của Phan Trọng Luận; Vấn đề

giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (1970) của Trần Thanh Đạm –

Hoàng Như Mai – Phan Sĩ Tấn - Huỳnh Lý; Những vấn đề nghiên cứu khoa

học về giảng văn (1971) của Trần Thanh Đạm; Phân tích tác phẩm văn học

trong nhà trường (1977) ; Con đường nâng cao hiệu quả dạy văn (1978) của

Phan Trọng Luận; Tu từ học với vấn đề giảng dạy ngữ văn (1979) của Đinh

Trọng Lạc; Giảng văn dưới ánh sáng ngôn ngữ học (1979) của Đái Xuân

Ninh; Mấy vấn đề về quan điểm và phương pháp tìm hiểu phân tích thơ của

Hồ Chủ tịch (1981) của Nguyễn Đăng Mạnh; Giảng văn (1982) của ĐHSP Hà

Nội; Những bài giảng văn ở đại học (1982) của Lê Trí Viễn; Mấy vấn đề

phương pháp giảng dạy và nghiên cứu văn học dân gian (1983) của Hoàng

Tiến Tựu; Mấy vần đề phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam (1984) của

Nguyễn Sĩ Cẩn…

Qua các công trình này có thể nhận thấy: việc dạy học văn nói chung và

việc giảng bình nói riêng chủ yếu vẫn tập trung vào việc dạy của giáo viên mà

ít quan tâm đến học sinh và việc cảm thụ của học sinh.

Giáo trình Phương pháp giảng dạy văn học (1963) của Trường ĐHSP

Hà Nội I viết: “ Giảng văn là một môn học, trên cơ sở tập đọc của học sinh,

giáo viên tiến hành việc giới thiệu, hướng dẫn, phân tích, phê phán để giúp

học sinh hiểu kĩ và hiểu sâu một bài văn, từ đó rút ra bài học về nội dung và

nghệ thuật để hoàn thành nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng nhất định”. PGS.

Trần Thanh Đạm, trong báo cáo Những vấn đề nghiên cứu khoa học về giảng

văn trình bày tại Hội nghị khoa học chuyên đề về Giảng văn được tổ chức tại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5

ĐHSP Hà Nội I năm 1971, cũng cho rằng: “ Giảng văn là phân tích và giảng

dạy tác phẩm văn chương trong nhà trường…Trong giảng dạy văn, thầy giáo

dựa vào việc phân tích tác phẩm để giáo dục học sinh”. P.GS Đái Xuân Ninh,

từ việc vận dụng phương pháp hệ thông trong ngôn ngữ học, đã gợi ý giáo

viên ba bước khai thác văn bản: 1. Tìm ra mối quan hệ đồng nhất của hệ

thống bài văn tức linh hồn của bài văn, cái mà người ta gọi là chủ đề và tư

tưởng chủ đề; 2. Dựa vào tính cấp độ, chia hệ thống bài văn thành những hệ

thống nhỏ, tức là những đoạn khác nhau mà ta gọi là bố cục; 3. Lựa chọn các

yếu tố để phân tích theo mối quan hệ của chúng trong hệ thống bài văn…

Như vậy, hầu hết các quan điểm về dạy học văn đều tập trung vào giáo

viên, phát huy vai trò, tiềm lực của giáo viên trong giờ dạy học TPVC..

Vấn đề phát huy vai trò cảm nhận của học sinh và lời bình của học sinh

trong giờ học tác phẩm văn chương cũng đã bắt đầu đặt ra nhưng còn khá

khiêm tốn. Ngay từ năm 1950, trong Giảng văn Chinh phụ ngâm, GS Đặng

Thai Mai đã phê phán lối dạy văn “thôi miên vô ý thức” khiến học sinh “ngáp

sái cả quai hàm”. Sự phê phán này hàm chứa quan niệm của tác giả về người

giáo viên và học sinh trong giờ học văn: giáo viên không nên là một ảo thuật

gia dùng kỹ xảo của mình để “thôi miên” học trò. Nghệ thuật giảng bình dù

khéo và tài đến mấy cũng chỉ có những tác động nhất định, không đánh thức

được các năng lực bên trong của học sinh. Học trò vẫn là đối tượng bị điều

khiển, chịu sự điều khiển của ông thầy. Vấn đề càng trở nên tệ hại hơn nếu

giáo viên là một nhà ảo thuật tồi, hành xử một cách “vô ý thức” khiến học

sinh chẳng những không tích cực mà ngược lại còn “sái quai hàm” sau giờ

văn. Tuy vậy, vấn đề vai trò của học sinh trong giờ học TPVC vẫn chưa được

giáo sư đề cập đến trong Giảng văn Chinh phụ ngâm.

Năm 1973, trong bài Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Thủ

tướng Phạm Văn Đồng đã phê phán gay gắt hiện tượng dạy văn theo điệu

“sáo”, bắt học sinh “học nhiều”, “nhớ nhiều” để rồi “bắt chước”, “lặp lại,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!