Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Kế hoạch quản lý môi trường khoáng sản
MIỄN PHÍ
Số trang
34
Kích thước
300.1 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1417

Kế hoạch quản lý môi trường khoáng sản

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

LỜI MỞ ĐẦU

Những năm qua, ngành khai thác và chế biến khoáng sản ở nước ta phát

triển khá mạnh, đặc biệt là ngành Công nghiệp khai thác mỏ là ngành kinh tế tạo

ra nhiều sản phẩm đáp ứng yêu cầu phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, giữ

vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Tuy

nhiên, công nghiệp (CN) khai khoáng đang đứng trước nhiều thách thức: khai

thác, sử dụng chưa có hiệu quả làm cho tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, tác

động xấu tới cảnh quan và hình thái môi trường, gây ô nhiễm nguồn nước,

không khí, đất đai, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học và sự phát triển của nhiều

ngành kinh tế khác. Các cơ quan quản lý Nhà nước về khoáng sản, các doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản luôn muốn tìm ra những phương

pháp cũng như các đề án trao đổi kinh nghiệm nhằm phát huy những mặt tích

cực và đưa ra những định hướng, giải pháp tích cực nhằm nâng cao năng lực

quản lý tài nguyên khoáng sản và hoạt động khoáng sản vì lợi ích quốc gia và sự

phát triển bền vững của ngành khai thác khoáng sản ở Việt Nam.

Nằm ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên

khoáng sản phong phú, đa dạng, là nguồn nguyên liệu, tiềm năng quý của quốc

gia. Chính vì thế mà Việt Nam luôn là nơi các nhà tài trợ khoáng sản chọn là

trong những dự án hàng đầu để đầu tư. Tuy nhiên các nhà tài trợ cũng luôn có

yêu cầu riêng của mình đối với vấn đề bảo vệ môi trường trong các dự án, cũng

như các yêu cầu của luật bảo vệ môi trường, các nhà tài trợ đòi hỏi phải có đánh

giá tác động của môi trường tới các dự án khi mà họ tài trợ chính thức.

Trong khi đánh giá tác động môi trường các nhà tài trợ đòi hỏi phải có kế

hoạch quản lý môi trường. Nội dung kế hoạch quản lý môi trường được xây

dựng trên cơ sở phân tích, đánh giá những tác động tiêu cực do dự án gây ra và

được thể hiện dưới hình thức một kế hoạch tổng thể trong việc tổ chức thực hiện

các giải pháp bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực đã

được phân tích, đánh giá. Chính vì vậy, xây dựng một kế hoạch quản lý môi

trường các ngành công nghiệp nói chung và khai thác khoáng sản nói riêng

chính là tiền đề, công cụ cần thiết để đáp ứng các yêu cầu khác nhau về bảo vệ

môi trường của các dự án. Xuất phát từ mục tiêu và tầm quan trọng trong việc

xây dựng kế hoạch quản lý môi trường cho các dự án đầu tư khoáng sản là rất

cần thiết nên chúng tôi đã chọn đề tài:

“Nghiên cứu xây dựng kế hoạch quản lý môi trường các dự án đầu tư khai

thác khoáng sản”

[1]

1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.

Đất nước Việt Nam đang trên đà phát triển, chính vì thế công tác điều tra

địa chất và tìm kiếm thăm dò khoáng sản được triển khai trên quy mô toàn lãnh

thổ Việt Nam. Trong công tác điều tra cơ bản, bằng việc lập bản đồ địa chất

khoáng sản tỷ lệ 1/50.000, đã phát hiện thêm nhiều vùng, điểm mỏ có triển vọng

lớn. Kết quả của công tác điều tra, khảo sát, thăm dò địa chất cho thấy, Việt

Nam có nhiều khoáng sản có trữ lượng lớn như bôxit, quặng sắt, đất hiếm,

apatít,… chủng loại khoáng sản đa dạng. Chính vì thế mà công việc lập kế

hoạch quản lý môi trường các dự án đầu tư khai thác khoáng sản luôn là vấn đề

cấp thiết đối với các nhà tài trợ cũng như của quốc gia. Để sâu hơn trong vấn đề

lập kế hoạch quản lý môi trường khai thác khoáng sản. Nhóm làm đề tài đi sâu

vào công việc lập kế hoạch cho một loại khoáng sản. Bản kế hoạch này được lập

cho công việc bảo vệ môi trường khai thác than ở Quảng Ninh.

Khai thác khoáng sản ở Quảng Ninh, đặc biệt là nguồn khoáng sản than

đang làm tổn hại nghiêm trọng đến các môi trường: Đất, nước, không khí, sinh

vật. Trong công nghệ khai thác, bình quân để lấy được 1 tấn than, chúng ta phải

khoan, nổ mìn làm tơi để xúc lên, rồi vận chuyển đi xa (với cung độ bình quân

3-5km) và đổ thải ra chỗ khác khoảng 5-10 m3

đất đá. Các công đoạn không thể

tránh khỏi này của khai thác than ở Quảng Ninh dẫn đến việc môi trường sinh

thái bị ảnh hưởng tiêu cực. Địa hình của tỉnh Quảng Ninh biến động nhanh và

với qui mô lớn chủ yếu do khai thác than. Quốc lộ 14 chạy qua thị xã Hòn Gai

và thị trấn Cẩm Phả nhiều đoạn đã phải dịch chuyển ra phía biển để nhường chỗ

cho các bãi thải đất đá của các mỏ khai thác than bằng công nghệ lộ thiên (Hà

Tu, Đèo Nai, Cọc Sáu). Suối Vàng Danh và sông Mông Dương, gắn với việc

phát triển các mỏ than hầm lò nổi tiếng Vàng Danh (Uông Bí) và Mông Dương

(Mông Dương-Khe Chàm) cũng đã bị thay đổi (nhưng không phải vì khai thác

than hầm lò, mà chủ yếu vì khai thác than lộ thiên). Trước đây, con suối chảy từ

mỏ Vàng Danh ra Uông Bí từng là nguồn cung cấp nước cho cả thành phố Hải

Phòng vì nước trong và sạch. Ở vùng than Uông Bí, không ai quên câu ca dao từ

thời Pháp “nước Vàng Danh, canh Hải Phòng”.

Ngày nay, khi khu mỏ Vàng Danh (trước đây, Liên Xô chỉ thiết kế khai

thác bằng công nghệ hầm lò với công suất tối đa có 1,8 tr.t/năm) nay được mở

rộng ra bằng các công nghệ khai thác than lộ thiên, tổng công suất các mỏ than

đã lên tới gần 5 triệu tấn/năm, thì nước suối Vàng Danh đã không thể dùng để

dẫn về Hải Phòng. Lớn hơn suối Vàng Danh là con sông Mông Dương (hợp lưu

của nhiều con suối xuất phát từ khai trường của những mỏ than lộ thiên trong

[2]

vùng). Trước đây, người Pháp đã dùng con sông này làm đường thủy chở than

Mông Dương ra biển để xuất khẩu. Ngày nay, con sông này đã bị loại ra khỏi

danh sách các tuyến vận tải thủy.Ô nhiễm môi trường giống như một căn bệnh

nan y khó chữa. Trong khi đó, ngành than vẫn chưa có một chiến lược tổng thể

để giảm thiểu các tiêu cực đến môi trường. Các giải pháp đang được triển khai

về bảo vệ môi trường chỉ mang tính đối phó. Viancomin chỉ tập trung xử lý phần

“ngọn” của căn bệnh nan y này theo kiểu “công tử Bạc Liêu”. Kết quả của

những giải pháp thuộc về “phần ngọn” thường thể hiện nhanh, đáp ứng được

cho việc tổng kết hay báo cáo thành tích, nhưng nguy cơ về môi trường hay

nguy cơ về tai nạn lao động thì vẫn như cũ. Rất tiếc, những giải pháp kỹ thuật cơ

bản có liên quan đến bảo vệ môi trường và đảm bảo an toàn cho công nhân mỏ

đã và đang tiếp tục bị vi phạm. Việc cải thiện môi trường chủ yếu nhờ các giải

pháp mang tính tổ chức và quản lý của các cơ quan cấp trên và của chính quyền

địa phương. Tuy nhiên, các giải pháp đó chỉ mang tính “tạm thời”. Bởi lẽ việc

khai thác than là để phục vụ trực tiếp cho các ngành kinh tế quan trọng (điện, xi

măng, phân bón, hóa chất, giấy, vật liệu xây dựng) của đất nước. Khi “Tổ quốc

cần than như con thơ cần sữa mẹ”, sự hy sinh về môi trường của Quảng Ninh

được chấp nhận như một sự đánh đổi cần thiết. Quảng Ninh đã biết và quen

chấp nhận sự “đánh đổi” này là vì sự nghiệp phát triển của các ngành kinh tế và

các địa phương khác của đất nước. Vấn đề bảo vệ môi trường trong khai thác

than dường như bị lãng quên nhưng khi khí hậu đang bị biến đổi, thiên nhiên bị

hủy hoại, con người mới nhận ra sực chịu đụng của mẹ Trái Đất là có giới hạn.

Vì vậy vấn đề môi trường cần được nhận thức khoa học, tư duy đúng, cần

được quản lý thực hiện một cách bài bản, và đòi hỏi cán bộ điều hành phải có đủ

trình độ chuyên môn và kỹ thuật. Việc xây dựng kế hoạch quản lý môi trường

cho các dự án đầu tư khai thác khoáng sản là một vấn đề cấp thiết hiện nay để

thực hiện chiến lược phát triển bền vững của ngành khai thác khoáng sản.

Để thực hiện một dự án đầu tư khai thác khoáng sản, theo các quy định

của Luật bảo vệ môi trường 2005 thì các dự án cần có chương trình quản lý và

giám sát môi trường (Mục 6 điều 20). Các dự án khai thác khoáng sản để được

phê duyệt bao giờ cũng phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường (hoặc một

hình thức rút gọn khác theo quy định, tùy theo quy mô của dự án). Các dự án

này chỉ được phê duyệt khi bản báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được

các cơ quan có chức năng thẩm định và phê duyệt. Khi thực hiện dự án không

cần thiết phải tiến hành đánh giá tác động môi trường lại nữa, nhưng phải thực

hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. Để thực hiện các biện pháp bảo vệ môi

[3]

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!