Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hồi kí trong văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến nay
PREMIUM
Số trang
171
Kích thước
999.8 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1054

Hồi kí trong văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến nay

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

Hồi kí trong văn học Việt Nam từ sau cách mạng

tháng Tám 1945 đến nay.

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam, Mã số: 62.22.01.21

Nghiên cứu sinh: Ngô Thị Ngọc Diệp

Người hướng dẫn: 1. PGS.TS. Nguyễn Thị Bình, 2. TS. Chu Văn

Sơn

Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Hồi kí là thể loại văn học độc đáo, quá trình vận động của nó phản chiếu rõ

nét trạng thái lịch sử - xã hội và mang đậm dấu ấn những biến thiên của thời đại. Dù ra

đời và phát triển trên thế giới từ rất sớm, nhưng ở Việt Nam phải đến đầu thế kỉ XX hồi

kí mới hình thành với sự xuất hiện lẻ tẻ một số tác phẩm có xu hướng pha trộn tự

truyện. Từ sau 1945 trở đi, hồi kí mới thực sự phát triển, tuy có những bước thăng trầm

nhưng vẫn không ngừng tự điều chỉnh tạo nên sức sống riêng của thể loại: thời kì

chống Mỹ cứu nước, xuất hiện rầm rộ hồi kí cách mạng, ít có hồi kí văn học, khoảng từ

đầu thập kỉ 90 trở đi, lại có sự bùng nổ hàng loạt hồi kí của các văn nghệ sĩ, nhà hoạt

động xã hội, các tướng lĩnh… với những mối quan tâm khác nhau, những bút pháp rất

đa dạng, và hồi kí văn học thực sự lên ngôi. Như vậy, đây là hiện tượng chứa đựng

nhiều vấn đề có ý nghĩa lí luận và văn học sử rất cần được quan tâm nghiên cứu.

1.2. Hồi kí vừa có điểm gần với các loại hình ngoài văn học như báo chí,

ghi chép tư liệu, tiểu sử khoa học, nhật kí…, vừa có sự giao thoa với các thể loại

văn học khác như tự truyện, tiểu thuyết tự thuật… Tuy nhiên, hồi kí văn học có

quy luật vận động và đặc thù riêng: tái dựng hiện thực qua hồi ức và thường đậm

tính chủ quan, cái tôi tác giả có vị trí nổi bật, sự đa dạng, phức tạp về kiểu loại,

cấu trúc và định hướng thẩm mĩ… Việc xác định khái niệm, đặc trưng của thể hồi

kí thông qua sự biện giải, phân tích các hiện tượng sinh động trong thực tiễn sáng

tác ở nước ta sẽ góp cái nhìn mới về thể loại, giúp đánh giá đúng hơn giá trị của

nó sau một hành trình phát triển khá dài mà xung quanh việc nhìn nhận, định giá

còn khá nhiều vấn đề phức tạp…

1.3. Sự vận động và phát triển phong phú, đa dạng của thể hồi kí từ sau 1945

đến nay là một phần quan trọng của nền văn học dân tộc. Đóng góp lớn nhất của nó

là rọi chiếu vào quá khứ cái nhìn trải nghiệm chân thực, sinh động, gây ấn tượng

mạnh đến mức hầu như các thể loại văn học hư cấu không vượt qua được. Các thể

3

loại nhật kí, tự truyện, tiểu thuyết tự thuật cũng sử dụng chất liệu “sự thật” nhưng

chủ yếu khai thác ở góc độ tiểu sử, đời tư hoặc mở ra khả năng vô biên của sự tự hư

cấu nên tính chân thật có phần mờ nhòe, trong khi hồi kí vừa dựng lên diện mạo quá

khứ với mọi vấn đề phức tạp, những phần khuất lấp, thông qua kinh nghiệm của

nhân chứng / người trong cuộc, vừa đi sâu mổ xẻ đời tư, nhân cách của cái tôi tác

giả. Nó chứng minh một điều: cuộc sống chính là cái đẹp, có sức cuốn hút mạnh mẽ

bởi vẻ sống động, phức tạp, bí ẩn muôn thuở. Nó cũng cho thấy vai trò của cá nhân

trong thụ cảm cuộc sống. Hồi kí vừa giữ được tính xác thực, sống động của hiện

thực vừa làm cho nó trở nên có tính nghệ thuật và hấp dẫn hơn. Nghiên cứu thể loại,

vì thế, có khả năng đưa đến cho độc giả nhận thức sâu sắc về vẻ đẹp, giá trị của hồi

kí đối với sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.

1.4. Trong thời đại dân chủ, con người được khuyến khích nhìn thẳng vào sự

thật và ngày càng có điều kiện tiếp cận chân lí bởi khoa học công nghệ phát triển cao,

sự bùng nổ thông tin và công cuộc giao lưu toàn cầu. Tri thức con người nhanh chóng

được bồi đắp từ nhiều nguồn khác nhau khiến họ ngày càng có nhu cầu được can dự

vào các vấn đề lịch sử và nhất là kiểm chứng chân lí: “Một thực tế không thể phủ nhận

là độc giả ngày nay quan tâm nhiều đến bản thân cuộc đời các nguyên mẫu hiện thực,

đến sự chân xác, trung thực khách quan của các chi tiết, sự kiện lịch sử. Đây lại chính

là ưu thế lớn của hồi kí nói riêng và các tác phẩm kí nói chung” (Lý Hoài Thu). Điều

này giải thích vì sao trong thị trường ấn phẩm sách báo phong phú và đa dạng hiện nay,

nhiều người vẫn tìm đến hồi kí, thể loại tưởng chừng chỉ dành cho lớp độc giả lớn tuổi

thích hồi cố hoặc giới học thuật có nhu cầu “khảo cổ”. Tìm hiểu thể loại này với tư

cách là một “kênh” thông tin về “sự thật” qua góc nhìn của người trong cuộc là việc

làm lí thú và bổ ích, vừa thỏa mãn tâm lí, thị hiếu của thời đại, vừa chia sẻ “cách đọc”,

khơi gợi những định hướng tiếp cận dưới góc nhìn khách quan, khoa học…

Đó là những lí do cơ bản để chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Hồi kí trong

văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay”.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những nghiên cứu mang tính tổng quan

4

Khái quát diện mạo của hồi kí trong đời sống văn học sau 1945, nhiều nhà

nghiên cứu chú ý giải thích sự phát triển có tính lịch sử của nó qua các chặng

đường. Bích Thu khẳng định sự bùng nổ và ưu thế của hồi kí vào những thập niên

cuối thế kỉ XX. Theo bà, sự xuất hiện của những hồi kí “mang đậm dấu ấn cái tôi

của nhà văn, thuật lại lai lịch, đời tư, đời viết, quan hệ chủ thể sáng tạo với đồng

nghiệp, bạn văn, người thân và bạn đọc… thu hút sự chú ý của người đọc đã chứng

tỏ cái thế mạnh riêng của tác phẩm kí” [23, tr.411]. Một số ý kiến khẳng định hồi

cố, hồi thuật với cảm hứng giải thiêng, nhận thức lại quá khứ là khuynh hướng nổi

trội trong văn xuôi giai đoạn hiện nay. Thí dụ, Phong Lê nhấn mạnh sự xuất hiện

nhiều tác phẩm mang khuynh hướng hồi kí, tự truyện: “Để nhớ về một quá khứ

chưa xa, về một vùng hiện thực khuất nẻo, khó có ai biết, nhưng đã được viết với tư

cách người trong cuộc, nên khó có thể ai viết thay, là Chuyện kể năm 2000, 2 tập

(2000) của Bùi Ngọc Tấn, trong nối dài về trước với Tuổi thơ im lặng (1987) của

Duy Khán, Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) của Tô Hoài… cũng có

thể xếp vào đây Thượng đế thì cười (2003) của Nguyễn Khải - một tiểu thuyết gần

như tự truyện (autofiction)…” [73], còn Nguyễn Phượng khẳng định sự phát triển

nổi trội của thể hồi kí, tự truyện trong bối cảnh nền kinh tế thị trường: “Không ngẫu

nhiên, thể loại hồi kí, tự truyện và tiểu thuyết tự truyện lại gần như chiếm thế

thượng phong trong giai đoạn này. Công chúng dành sự quan tâm khá đặc biệt với

một số tiểu thuyết tự truyện và hồi kí như Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều

(1999) của Tô Hoài, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn…”. Sự quan tâm đó

theo ông là do “xu hướng giải thiêng, giải ảo”, “sự thay đổi nhận thức và quan niệm

về các hệ giá trị” và “cái nhìn tỉnh táo, duy thực đầy can đảm” của nhà văn trong

việc “diễn đạt những sự thật từng bị che khuất bởi những chi phối của lịch sử và

thời cuộc” [109]. Hà Minh Đức trong khi khảo sát mối quan hệ văn chương và thời

cuộc cũng nhận định: “Trong tương lai sẽ có rất nhiều hồi kí, nhật kí xuất hiện khi

người ta quan tâm đến cuộc đời riêng của nhiều loại người vốn có đóng góp hoặc

nổi danh ở một lĩnh vực nào đó” [27].

5

Như vậy, sự phát triển mạnh mẽ của hồi kí giai đoạn sau 1975 nằm trong xu

thế phát triển chung của các dạng thức hồi cố, hồi thuật, tự truyện, nhằm thoả mãn

nhu cầu khẳng định cái tôi cá nhân lúc bấy giờ như một qui luật tất yếu. Nhiều nhà

nghiên cứu có cái nhìn tổng kết, khái quát quá trình phát triển của thể loại trong các

công trình văn học sử. Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại của trường Đại học Sư

phạm Hà Nội có đoạn: “Trong văn xuôi những năm 90 và vài năm gần đây, thấy nổi

lên hai mảng đáng chú ý: hồi kí - tự truyện và tiểu thuyết lịch sử. Một loạt hồi kí

của các nhà văn, nhà thơ, cả những nhà hoạt động xã hội đã đem lại cho người đọc

những hiểu biết cụ thể, sinh động và xác thực về xã hội, lịch sử, về đời sống văn

học và gương mặt một số nhà văn ở những thời kì đã qua” [77, tr.183]. Lý Hoài Thu

trong công trình Đồng cảm và sáng tạo lí giải sự phát triển và ghi nhận những đóng

góp của hồi kí cho đời sống văn học: “Những năm cuối cùng khép lại thế kỉ XX, sự

ra đời của các tác phẩm hồi kí nhằm đáp ứng lại nhu cầu nhìn nhận và suy ngẫm về

quá khứ. Những vấn đề của văn chương một thuở, những số phận đã thành dĩ vãng

giờ được tái dựng theo một tinh thần mới, giả thiết mới đã gây không ít những cuộc

tranh cãi mà nhờ đó, đời sống văn học trở nên có khí sắc hơn” [136, tr.133]. Bà tỏ

ra tin tưởng vào sự phát triển của thể loại này: “Với tất cả những nỗ lực tìm tòi,

khám phá, cách tân về nội dung ý nghĩa cũng như nghệ thuật biểu hiện và quan

trọng nhất là với sự tự khẳng định không ngừng phong cách cá nhân của các tác giả

hồi kí, bút kí thời kì đổi mới, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định sự thành công

và chín muồi của thể loại kí ở giai đoạn hiện nay” [137]…

2.2. Những nghiên cứu về tác giả, tác phẩm hồi kí tiêu biểu

Hướng nghiên cứu này được sự quan tâm của rất nhiều người. Với các hồi kí

cách mạng xuất hiện trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ như Hai

lần vượt ngục (Trần Đăng Ninh), Vừa đi đường, vừa kể chuyện (T.Lan), Những mẩu

chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch (Trần Dân Tiên), Từ nhân dân mà ra,

Những năm tháng không thể nào quên (Võ Nguyên Giáp), Bất khuất (Nguyễn Đức

Thuận)…, các nhà phê bình đều thống nhất đánh giá cao việc tái hiện và ngợi ca lịch

sử đấu tranh cách mạng, biểu hiện sinh động chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp con người

6

Việt Nam trong chiến tranh cứu nước, thống nhất ghi nhận đóng góp của hồi kí cách

mạng trong việc đưa thực tế phong phú vào tác phẩm, cho thấy không khí, hơi thở

của một thời đại hào hùng. Nhà xuất bản Giáo dục giới thiệu ý nghĩa giáo dục của tập

Hồi kí cách mạng: “Đọc Hồi kí cách mạng, qua những hình ảnh sinh động, cụ thể,

những chi tiết chân thực và những câu chuyện đầy sức thu hút, chúng ta hiểu biết khá

sâu sắc về những chặng đường hoạt động cách mạng đầy gian lao thử thách và cực kì

anh dũng, vẻ vang của Bác Hồ và các đồng chí cộng sản ưu tú của Đảng cũng như

của quần chúng yêu nước từ khi cách mạng còn ở thời kì trứng nước cho đến ngày

cách mạng tháng Tám thành công” [193]. Trần Hữu Tá khẳng định giá trị lịch sử và

đóng góp của hồi kí cách mạng ở việc khắc họa “vẻ đẹp của người chiến sĩ cộng sản

Việt Nam”: “Trong hỏa ngục trần gian ấy, sáng chói lên hình ảnh người chiến sĩ cộng

sản và lớp lớp quần chúng cách mạng trung kiên. Những nguyên mẫu xã hội vốn rất

sinh động, qua các trang sách đã trở thành hình tượng nghệ thuật đẹp tươi” [121,

tr.19]. Với Những năm tháng không thể nào quên (Võ Nguyên Giáp), Nguyễn Công

Hoan đánh giá: “Cuốn Những năm tháng không thể nào quên của Võ Nguyên Giáp

mà trung tá Hữu Mai ghi đã cho ta thấy đầy đủ những sự kiện quan trọng có nhìn thấy

và không nhìn thấy đã xảy ra trong nước, ở trong Phủ Chủ tịch, và sự điều khiển vô

cùng tài tình cho con thuyền đang luồn những mỏm đá trong mùa đông lạnh lẽo…”

[54, tr.94-97]. Phạm Hùng, Hà Huy Giáp đều đề cao hồi kí Bất khuất của Nguyễn

Đức Thuận: “Tập Bất khuất của đồng chí Nguyễn Đức Thuận ra đời lại thêm một

đóng góp mới vào văn nghệ cách mạng của dân tộc ta. Là một trong những chiến sĩ

cộng sản kiên cường, đồng chí Nguyễn Đức Thuận chống “li khai”, chống “tố cộng”

đến cùng trong suốt tám năm trường… Đồng chí kể lại một cách trung thực và sinh

động cuộc đấu tranh vô cùng ác liệt hằng giờ, hằng phút trong các địa ngục trần gian

kiểu Mỹ ở miền Nam” [280, tr.9,10]; “Mỗi trang Bất khuất là một trang thấm máu và

nước mắt, tràn đầy một sức sống mãnh liệt, vang lên tiếng hát yêu đời, yêu con

người, vang lên bài ca chiến thắng không bao giờ tắt” [36, tr.1]. Nam Mộc, Phan

Nhân, Trần Văn Giàu, Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Huyên… cũng đề cao hồi kí cách

mạng qua một số bài viết: Lớn lên với Điện Biên, một tập hồi kí có những điểm xuất

7

sắc (Tạp chí Văn học số 11/1964, tr.63); Đọc hồi kí cách mạng Người Hà Nội (Tạp

chí Văn học, số 7/1965, tr.36); Đọc tập hồi kí Những ngày gian khổ (Tạp chí Văn học

số 4/1965, tr.36); Về khả năng phản ánh hiện thực của hồi kí, nhân đọc Sống như Anh

(Tạp chí Văn học số 4/1965, tr.81); Bất khuất, một tác phẩm quý để giáo dục lí tưởng

cách mạng (Tạp chí Văn học số 4/1968, tr.15)…

Với mảng hồi kí văn nghệ giai đoạn 1945 - 1975, giới nghiên cứu hầu như

chỉ chú ý đến hai cây bút: Nguyên Hồng và Vũ Bằng. Nguyễn Đăng Điệp trong bài

Đặc sắc hồi kí Nguyên Hồng cho rằng hồi kí của nhà văn này là hồi kí tâm trạng,

“chất thơ, chất trữ tình trội át chất phân tích, tự sự”, “Đây vừa là chỗ mạnh, vừa là

điểm yếu của bút pháp Nguyên Hồng” [26, tr.231-235]. Nhiều công trình khác về

Nguyên Hồng chưa tách hồi kí thành đối tượng nghiên cứu riêng… Vũ Bằng là cây

bút rất có duyên với thể hồi kí. Qua nhiều công trình, bài viết về nhà văn này, Văn

Giá nhận ra nét riêng của hồi kí Vũ Bằng là “hồi kí trữ tình, tái hiện tâm trạng, cảm

xúc; sự kiện được giảm thiểu tối đa, chỉ còn là cái cớ để cho cảm xúc được thăng

hoa”. Trong đối sánh với Tô Hoài, Văn Giá chỉ ra sự khác biệt giữa hai phong cách:

nếu hồi kí Tô Hoài “mang giọng kể, mang tính văn xuôi, tiểu thuyết hoá hồi kí”, thì

hồi kí Vũ Bằng “mang giọng cảm, trữ tình, mang tính thơ, thơ hoá hồi kí” [30,

tr.335]. Với loạt bài chân dung văn học của Vũ Bằng, ông cho đó là “chân dung hồi

kí” và ghi nhận những đóng góp của tác giả, từ quan niệm về con người: “Với riêng

Vũ Bằng, ông quan niệm nhà văn cũng là con người mà đã là con người thì bất kì ai

cũng đều có mặt tốt, mặt xấu, cái hay cái dở”, đến điểm đặc sắc trong nghệ thuật

dựng chân dung: “Nhà văn Tô Hoài trong các tác phẩm hồi kí hoặc chân dung văn

học của mình cũng rất quan tâm và hứng thú miêu tả các chi tiết đời tư có phần

nhếch nhác của giới văn nghệ sĩ. Nhưng Vũ Bằng khác ông ở chỗ: Nếu Vũ Bằng

trình bày những điều đó với tư cách là người cùng hội cùng thuyền, cùng tài cùng

tật… nên rất mực cảm thông, chia sẻ, phát hiện ra cái nguyên cớ bên trong nhiều

khi rất đáng thương ở người nghệ sĩ, thì Tô Hoài nhìn vào đó với cái nhìn của người

ngoài cuộc tỉnh táo, cũng cảm thông thật đấy, nhưng cũng không sao giấu được cái

vẻ giễu cợt tinh quái, cho dù có khi là giễu yêu”; “Những chân dung của Vũ Bằng

8

bao giờ cũng được nội tâm hóa”, còn Tô Hoài “xây dựng chân dung theo hướng

miêu tả khách quan”; “Khi viết chân dung, Tô Hoài vẫn cứ là một cây bút hiện thực,

bám chặt vào “chất văn xuôi” của đời sống. Trong khi đó, bao giờ Vũ Bằng cũng là

một cây bút trữ tình, đằm thắm chất thơ” [165, tr.391-398]. Là người tâm huyết với

Vũ Bằng, Văn Giá đã cơ bản nhận diện được chân dung ông qua hồi kí. Vũ Xuân

Triệu cho rằng hình tượng tác giả Vũ Bằng trong hồi kí Bốn mươi năm nói láo là

“cái tôi đa dạng”: “cái tôi thành thật”, “cái tôi đầy dũng khí” và “cái tôi hóm hỉnh”

[145]. Tường Duy nhận thấy Vũ Bằng là một trong số ít nhà văn thành thực với

chính mình khi viết hồi kí: “Nếu như đây đó chúng ta vẫn bắt gặp những cuốn gọi là

“hồi kí” song nội dung chủ yếu là để thanh minh thanh nga, hoặc khoe khoang công

tích, đánh bóng tên tuổi tác giả, thì điều đó chúng ta sẽ rất khó gặp ở Vũ Bằng. Đọc

những bài viết có tính hồi cố của ông, điều ta có thể nhận thấy ngay: ông là nhà văn

rất sòng phẳng với đời. Ông sẵn sàng kể “tội” mình” [17]…

Đặc biệt, sự bùng nổ của hồi kí từ đầu thập kỉ 90 trở đi, khiến giới học thuật

rất chú ý đến sự vận động của thể loại. Mối quan tâm này được thể hiện rõ khi họ bàn

đến hai cây bút hồi kí nổi bật nhất là Nguyễn Khải và Tô Hoài. Với Nguyễn Khải, các

nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Thị Bình, Bích

Thu… đều đề cập đến việc sáng tác của ông giai đoạn sau có nhiều chi tiết tiểu sử

khiến chúng đậm chất hồi kí, tự truyện. Nguyễn Đăng Mạnh nhấn mạnh sự biến

chuyển trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, đặc biệt là sự trở về với cái tôi, điều này

mở ra một hướng khám phá cuộc sống mới bất ngờ, hấp dẫn: “dường như Nguyễn

Khải muốn khai thác triệt để vào cái kho kinh nghiệm riêng, cái vốn trải nghiệm riêng

của mình. Hàng loạt tác phẩm có tính chất hồi kí tự truyện được ông viết một cách

đầy hào hứng… gần đây ngòi bút của ông từ hướng ngoại chuyển mạnh sang hướng

nội, đào rất sâu vào chính thân phận mình và những gì gắn bó với thân phận mình.

Trong giới hạn đó, đối tượng hiện thực quả có thu hẹp lại, nhưng người đọc lại thấy

có nhiều khám phá bất ngờ hơn, hấp dẫn hơn, không phải chỉ về bản thân mình mà về

cả chuyện đời chuyện người nữa” [86]. Nguyễn Thị Bình rất chú ý đến yếu tố làm

thay đổi tư duy tiểu thuyết của Nguyễn Khải: “Có một người kể chuyện đóng vai tác

9

giả là nhà văn, nhà báo, là chú Khải, ông Khải cùng rất nhiều chi tiết tiểu sử như biểu

hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về mình, muốn coi mình là đối tượng của văn

chương” [8]. Cuốn Thượng đế thì cười, mặc dù được dán nhãn “tiểu thuyết” nhưng

nhiều người tỏ ra nghi ngờ cách định danh này. Đặng Anh Đào khẳng định: “đó

không phải tiểu thuyết mà là hồi kí. Dù Nguyễn Khải không xưng tôi, tự gọi mình là

“hắn” cũng vẫn là nhân vật hồi kí… hồi kí này vừa giống như một… bản kiểm điểm

của thế hệ những người quen sinh hoạt tập thể như “hắn”, lại vừa giống lời xưng tội

của một con chiên! Bởi “hắn” đã tự thú…” [19, tr.105, 106]. Nguyễn Thị Bình cho

rằng: “Đây là một dạng tiểu thuyết tự truyện hoặc một dạng hồi kí được cấp cho dáng

vẻ tiểu thuyết nhờ sự khách thể hoá cái tôi tác giả” [9]. Đông La quả quyết: “Thượng

đế thì cười thực chất là một cuốn hồi kí nhưng lại được viết theo hình thức của một

tiểu thuyết; tức các nhân vật đều có thực, còn kết cấu, văn phong thì được viết theo

kiểu tiểu thuyết” [68, tr.6, 7]… Hầu hết các nhà nghiên cứu đều nghiêng về coi tính

trội của Thượng đế thì cười là hồi kí, điều này giúp chúng tôi thêm tự tin đưa tác

phẩm vào đối tượng khảo sát. Vương Trí Nhàn nhận diện tác phẩm này ở cả hai tư

cách: hồi kí và tiểu thuyết, và cho rằng ở tư cách nào cũng là “sự dừng lại nửa

chừng”, “chưa tới” trong nghệ thuật: “Dù được gọi là tiểu thuyết hay là gì gì nữa,

thực chất của Thượng đế thì cười vẫn là cuốn sách trong đó một con người mang quá

khứ của mình ra để kể với bạn đọc… Nhìn chung, Thượng đế thì cười vẫn thành công

chính ở việc biểu dương một sự nghiệp hơn là chạm vào một vấn đề bao quát của

cuộc đời. Nó mang lại cho tác giả một chút yên tâm cần thiết, chứ không chắc đã giúp

cho các tầng lớp bạn đọc lẫn các đồng nghiệp soi vào đó để hiểu thêm những ngày

đang sống, với đủ ngọt bùi chua chát chúng ta vẫn cảm nhận” [99, tr.6,7].

Tô Hoài rất nổi tiếng với các tác phẩm hồi kí hoặc nghiêng về hồi kí: Cỏ

dại, Mùa hạ đến mùa xuân đi, Những gương mặt, Cát bụi chân ai, Chiều chiều,

Ba người khác… Riêng hai cuốn hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều, từ khi ra

đời đã được bàn luận sôi nổi trong nhiều công trình khác nhau. Xuân Sách cho rằng:

“Tác phẩm mang đậm chất phong cách Tô Hoài, từ văn phong đến con người, thâm

hậu mà dung dị, thì thầm mà không đơn điệu nhàm chán, lan man tí chút nhưng

10

không kề cà vô vị, một chút u mặc với cái giọng khơi khơi mà nói, ai muốn nghe thì

nghe, không bắt buộc nghe rồi hiểu. Sức hấp dẫn chủ yếu của tác phẩm là sự chân

thực” [71, tr.413-416]. Đặng Thị Hạnh chú ý đến cấu trúc thời gian và ngôn từ rất

hiện đại trong Cát bụi chân ai: “Thời gian hồi tưởng như ngẫu hứng, cũng chạy

lông bông theo dòng hoài niệm, móc vào đâu đấy, dừng lại một lát rồi lại đi…

Tưởng đó cũng là trò chơi lớn của văn viết hồi kí là đặt chồng lên nhau các lớp thời

gian… Sắc thái ngôn từ thật đa dạng. Có những phát biểu thẳng thừng, những châm

biếm trực tiếp… Cát bụi chân ai, một ẩn dụ, loại hình thái tu từ không có nhiều

trong tác phẩm Tô Hoài, mà mỗi người đọc có thể hiểu theo cách của mình” [71,

tr.417-426]. Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng Cát bụi chân ai và Chiều chiều là thế

giới của vô vàn chuyện vui, chuyện lạ được phát hiện bởi con mắt tinh quái, sắc sảo

và nụ cười hóm hỉnh của Tô Hoài. Thế giới ấy thể hiện rõ quan niệm “con người là

con người” và triết lí sống của Tô Hoài: được sống như chính mình, như một con

người bình thường [87]. Theo Lí Hoài Thu, cái nhìn của Tô Hoài trong hai cuốn hồi kí

này thấm đẫm cảm hứng nhận thức lại: “Tác giả của Chiều chiều và Cát bụi chân ai,

với một cái nhìn tỉnh táo, điềm đạm, đã nhìn nhận lại “Nhân văn - Giai phẩm” và

những vấn đề văn chương phức tạp một thời với tất cả tính thời sự và cả tính bi kịch

của nó. Bằng sức mạnh của hồi tưởng, nhà văn đã mạnh dạn, thẳng thắn nói ra những

“chuyện buồn quá khứ”, những “ấu trĩ trong văn học và chính trị một thời”, giúp người

đọc có được một hình dung và nhận thức “tường minh” hơn về lịch sử văn học nước

nhà những năm tháng đầy biến động” [137]. Ba người khác của Tô Hoài cũng thu hút

sự chú ý của dư luận. Lời giới thiệu của nhà xuất bản Đà Nẵng nhấn mạnh: “Câu

chuyện này có thể được coi là một mảng kí ức trong cuộc đời nhà văn Tô Hoài. Và kí

ức, có thể tương ứng, trùng với điều đã diễn ra, nhưng cũng có điều chỉ ở trong tâm

tưởng” [210]. Trần Hoa Minh nhận thấy Ba người khác như một sự tiếp nối mạch hồi

kí tự truyện của Tô Hoài: “lối viết Ba người khác - được gọi là tiểu thuyết cũng như

các hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều luôn là hư hư thực thực, nhưng ánh mắt và

nụ cười tinh ranh của Tô Hoài như vẫn theo dõi và thích thú vì đang đánh đố, dẫn dụ

người đọc chúng ta” [90].

11

Các cuốn hồi kí của Bùi Ngọc Tấn, Phùng Quán, Sao Mai, Duy Khán, Ma

Văn Kháng… cũng rất được hoan nghênh. Lê Minh Hà tâm đắc với Rừng xưa xanh

lá, Một thời để mất. Bà cho rằng sức nặng chữ nghĩa Bùi Ngọc Tấn chính là những

trải nghiệm, chiêm nghiệm ân nghĩa với đời: “Rừng xưa xanh lá không phải là giai

thoại. Viết về bè bạn không phải là giai thoại, cũng không phải cuốn sách về chuyện

đời, chuyện nghề chứa ẩn những khái quát, phát hiện về tác giả, tác phẩm, thi pháp,

và Bùi Ngọc Tấn không hì hục với kĩ thuật, vật vã với trào lưu. Với một số tác giả,

việc đạt được thêm một bước trên tiến trình hiện đại hoá văn chương là toàn bộ ý

nghĩa của sáng tác khiến bạn đọc vui mừng. Với Bùi Ngọc Tấn, ý nghĩa của sự trở lại

với chữ là nghĩa đời” [38]. Ngô Minh giới thiệu với người đọc tài năng và nhân cách

Phùng Quán qua cuốn Ba phút sự thật: “Chúng tôi tin rằng cuốn sách sẽ mang đến

cho bạn đọc nhiều chi tiết mới mẻ, cảm động về đời thường của những nhân vật

“nổi tiếng” mà lâu nay chúng ta ít có điều kiện tìm hiểu. Đọc sách chúng ta càng

trân trọng tài viết kí và tấm lòng thuỷ chung như nhất của Phùng Quán” [255].

Vương Trí Nhàn nói đến vị trí có tính chất bước ngoặt trong hành trình sáng tác

Duy Khán của tác phẩm Tuổi thơ im lặng. Tập hồi kí xuất hiện năm 1986 đã khiến

cho nhà văn “đang từ một người làm thơ, chuyển sang văn xuôi. Đang từ một người

dễ dãi chạy theo các đề tài thời sự, Duy Khán trở lại với cái phần kí ức tuổi thơ nằm

sâu và trở nên bền chặt trong tâm tư” [97]. Với hồi kí Năm tháng nhọc nhằn, năm

tháng nhớ thương của Ma Văn Kháng, Nguyễn Ngọc Thiện có nhận xét: “Cuốn

sách không chỉ giới hạn trong sự kể lại một cách trung thực, mắt thấy tai nghe và

nhớ lại theo cách viết và yêu cầu của hồi kí, mà hơn thế, nó còn được miêu tả, dựng

lại một cách tạo hình, sống động với ngôn từ, bút pháp, phong cách của một cây bút

văn xuôi tài hoa, lão thực. Qua từng trang của sách, hiện lên rõ nét bức tranh của

đời sống xã hội trải dài trong non một thế kỉ với chân dung phong phú các loại

người xuất hiện trong mối quan hệ với tác giả hoặc trong sự quan sát chăm chú của

ông theo góc nhìn của nghề viết văn” [132]. Từ tác phẩm của Sao Mai, Phạm Khải đã

khái quát về một xu hướng của hồi kí hiện nay: “Nhà văn Sao Mai trong cuốn hồi kí in

ở Nxb Công an nhân dân trước đây non chục năm cũng đặt tên là Sáng tối mặt người,

12

cho thấy xu hướng viết về con người đa chiều, đan xen những cái xấu, cái tốt là một xu

hướng ngày càng phổ biến trong tự truyện, hồi kí văn học” [62]…

Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều ghi nhận sự phát triển của hồi kí trong

văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945 qua các tác phẩm tiêu biểu,

đặc sắc. Bước đầu các công trình đã chỉ ra nét riêng của thể loại ở từng giai đoạn

văn học với những kết tinh tư tưởng và bút pháp. Ý kiến người đi trước thật sự đem

đến cho chúng tôi nhiều gợi mở xung quanh thể hồi kí: đặc trưng thể loại, sự đan

xen thể loại, giá trị tư liệu, vấn đề sự thật và hư cấu, cái tôi tác giả, phong cách hồi

kí… Tuy nhiên, sự nghiên cứu trong thời gian qua chưa thực sự đầy đặn cả về phạm

vi tư liệu và nội dung nghiên cứu. Những bài viết có ý nghĩa bao quát chung về diện

mạo thể loại còn ít và sự phân tích, lí giải điều kiện, qui luật phát triển, các khuynh

hướng cũng như đặc điểm hồi kí ở mỗi giai đoạn còn sơ lược, những nghiên cứu về

tác giả, tác phẩm tiêu biểu cũng chưa thật kĩ lưỡng, thiếu hẳn sự quan tâm đến mảng

hồi kí ở miền Nam trước 1975… Trên cơ sở kế thừa thành tựu đã có, chúng tôi sẽ

cố gắng bổ khuyết những thiếu hụt này, đưa việc nghiên cứu hồi kí vào một hệ

thống, từ xác định khái niệm, đặc trưng thể loại, đến soi chiếu quá trình phát triển

hồi kí qua các giai đoạn, tái hiện diện mạo, đặc điểm, các khuynh hướng vận động

cùng những đóng góp của hồi kí đối với sự phát triển của văn học Việt Nam hiện

đại, góp thêm một tiếng nói đánh giá đầy đủ hơn thành tựu của văn học Việt Nam

trên phương diện thể loại.

3. Mục đích nghiên cứu

Chúng tôi nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra qui luật vận động, những bước phát

triển về tư tưởng và nghệ thuật của thể hồi kí, đồng thời thấy được thành tựu và

những đóng góp của hồi kí đối với sự phát triển nền văn học Việt Nam hiện đại.

4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, đối tượng khảo sát

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Mối quan tâm của chúng tôi qua đề tài này là đời sống thể hồi kí trong dòng

chảy của lịch sử - xã hội với bao biến thiên thăng trầm. Luận án hướng đến tìm hiểu

13

diện mạo, các khuynh hướng, đặc điểm hồi kí qua từng chặng đường văn học: 1945

-1975 và sau 1975 đến nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Hồi kí trong văn học Việt Nam từ sau cách

mạng tháng Tám 1945 đến nay” ở một số phương diện: những vấn đề lí luận về thể

loại, các khuynh hướng chính, các đặc điểm cơ bản của hồi kí, tìm hiểu cái tôi tác

giả, những yếu tố đời tư với tư cách là chất liệu nghệ thuật sống động để soi ngắm

các giá trị nhân sinh, tìm hiểu những đặc sắc của nghệ thuật hồi kí: kết cấu hồi ức,

ngôn ngữ, giọng điệu và những chuyển dịch của nó…

4.3. Đối tượng khảo sát:

Những hồi kí đã xuất bản ở Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến

nay đều thuộc diện khảo sát của luận án. Tuy nhiên, luận án tập trung hơn vào hồi kí

của các văn nghệ sĩ và những nhân vật có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa - tư

tưởng của dân tộc, những tác phẩm có giá trị văn chương thẩm mĩ cao.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp nghiên cứu văn học sử: Đặt vấn đề nghiên cứu trong bối

cảnh lịch sử - xã hội và văn hóa đương thời để khảo sát, coi trọng tiến trình văn học,

có quan điểm lịch sử kết hợp với góc nhìn hiện tại khi lí giải, đánh giá các hiện

tượng hồi kí.

5.2. Phương pháp hệ thống: Xem xét sự vận động của hồi kí trong sự vận

động chung của hệ thống thể loại văn học Việt Nam hiện đại. Hồi kí vừa tuân thủ

qui luật phát triển như các thể loại khác dưới tác động của thời đại, vừa có tính độc

lập tương đối, phát triển theo qui luật nội tại và mang những đặc trưng riêng. Chúng

tôi vận dụng phương pháp này để phân tích, cụ thể hóa và chỉ ra những đặc thù của

thể hồi kí.

5.3. Phương pháp so sánh: Tìm hiểu diện mạo, đặc điểm, sự vận động và

phát triển của hồi kí mỗi giai đoạn phát triển trên cơ sở so sánh, đối chiếu với hồi kí

các giai đoạn trước và sau nó hoặc so sánh với các thể loại khác…

14

5.4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Lựa chọn khảo sát các hồi kí mang

đặc trưng thẩm mĩ cao, luận án vận dụng các khái niệm của thi pháp học để tìm hiểu

cách thức tiếp cận và khám phá hiện thực của hồi kí, cái nhìn về con người, xây

dựng không gian, thời gian nghệ thuật...

5.5. Phương pháp loại hình: Dựa vào đặc trưng, cái “gốc”, khuôn viên của

thể loại để lựa chọn tác phẩm khảo sát và định hướng khảo sát sao cho làm nổi bật

những nét khu biệt của các dạng thức hồi kí so với các thể loại khác.

5.6. Phương pháp tiểu sử: Vận dụng phương pháp này nhằm tìm hiểu tác

phẩm thông qua mối quan hệ giữa tác giả và văn bản nghệ thuật do họ tạo nên.

Phương pháp này được sử dụng kết hợp với phỏng vấn, điều tra… để có cơ sở tìm

hiểu yếu tố đời tư, đời thường, độ “thành thật” của cái tôi tác giả khi nói về mình và

người khác…

6. Đóng góp của luận án

6.1. Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và

kĩ lưỡng về thể hồi kí trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay, làm rõ đặc trưng,

diện mạo và đặc điểm của thể loại qua từng chặng đường vận động: 1945 - 1975, từ

1975 đến nay.

6.2. Luận án góp một cách nhìn khoa học khẳng định bản chất và vị trí của

hồi kí trong kí văn học nói riêng và văn học Việt Nam gần một thế kỉ qua nói

chung, cắt nghĩa việc nó đã đáp ứng nhu cầu của thời cuộc và công chúng như thế

nào để trở thành một bộ phận có giá trị đặc biệt trong nền văn học dân tộc.

6.3. Luận án làm rõ sự chuyển đổi và khác biệt của thể hồi kí từ 1945 -

1975 đến sau 1975 trên các phương diện tư duy thể loại, diện mạo, khuynh

hướng, đặc điểm và nghệ thuật, trên cơ sở đó hướng tới những vấn đề lí thuyết

và văn học sử như sự vận động của tư duy thể loại, sự tương tác văn học, tâm lí

sáng tạo và tiếp nhận…

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được triển khai thành ba chương:

Chương 1. Một số vấn đề thể loại.

15

Chương 2. Hồi kí giai đoạn 1945 - 1975.

Chương 3. Hồi kí từ sau 1975 đến nay.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỂ LOẠI

1.1. Hồi kí là một tiểu loại / dạng thức của kí

1.1.1. Khái niệm kí văn học

Kí là loại hình văn xuôi tự sự, hình thành và phát triển trong văn học thế giới

cũng như ở Việt Nam khá sớm. Là một dạng / kiểu văn học đặc thù, kí đặc biệt quan

tâm đến các sự kiện, biến cố lịch sử, những biểu hiện có thật của đời sống với sự

bộc lộ trực tiếp cá tính sáng tạo, nhận thức riêng và tham vọng can dự nhằm thúc

đẩy các hoạt động xã hội của nhà văn. Chính vì vậy, kí có một phạm vi biểu hiện

đời sống rất rộng lớn: có thể thiên về ghi chép sự việc, có thể thiên về biểu hiện

những xúc cảm trữ tình, có thể thiên về chính luận, thời sự. Nghĩa gốc của chữ “kí”

là ghi chép một sự việc gì đó để không quên. Vì tính chất “ghi chép” này phạm trù

của kí được mở rộng, hàm chứa nhiều tiểu loại: thực lục, tạp lục, mạn lục, truyện kí,

sử kí, du kí, nhật kí, hồi kí, phóng sự, tuỳ bút…

Để thấy rõ hơn khái niệm “kí văn học”, cần phân biệt nó với một số loại hình

ngoài văn học như báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu, đặc biệt là với “kí báo chí”,

loại hình gần “kí văn học” hơn cả. Trên thực tế, “kí văn học” có chịu sự tác động rõ

rệt của báo chí bởi tính chất chính luận, thời sự và chiến đấu của nó. Nhưng “kí văn

học” và “kí báo chí” vẫn có những đặc trưng riêng, phát triển theo những quy luật

riêng, với những chức năng riêng: “Kí văn học và kí báo chí giống nhau ở chỗ đều

tôn trọng tính xác thực và tính thời sự. Nhưng ở kí báo chí tính xác thực phải được

đảm bảo ở mức tuyệt đối, và tính thời sự cũng mang tính chất thật cấp bách, có khi

hằng ngày hằng giờ. Kí văn học không đòi hỏi như vậy, ngược lại nó yêu cầu cao

hơn về chất suy nghĩ và tình cảm của chủ thể” [82]. Nhằm thoả mãn nhu cầu thông

tin về cái mới, cái thời sự cho bạn đọc, kí báo chí chịu sự chi phối gắt gao của yêu

cầu thời sự. Tính thời sự là yếu tố đầu tiên được tính đến khi thẩm định giá trị của kí

báo chí. Ngược lại, trong kí văn học tính thời sự không phải là tiêu chí hàng đầu,

nhà văn viết kí vừa mong muốn lưu giữ, phản ánh hiện thực, vừa sử dụng chất liệu

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!