Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lịch sử giai cấp tư sản Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc bắt đầu từ đầu
thế kỷ XX, gắn với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất đến Cách mạng tháng
Tám 1945. Từ khi mới ra đời, tư sản Việt Nam đã có những hoạt động sản xuất
kinh doanh dưới những hình thức khác nhau và cổ động làm ăn theo lối tư bản
chủ nghĩa khá sôi nổi, với những phương thức kinh doanh phù hợp. Trên cơ sở
những hoạt động đó, từ năm 1919 đến đầu năm 1930, tư sản Việt Nam đã vươn
lên mạnh mẽ, khẳng định vị thế kinh tế của mình và đặc biệt tiến hành các hoạt
động chính trị - xã hội sôi nổi, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình phát sinh, phát
triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và góp phần không nhỏ vào sự phát triển
của phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong ba thập niên đầu thế kỷ XX.
1.2. Thực tế cho thấy, thời kỳ 1930 - 1945 hoạt động sản xuất kinh doanh
của tư sản Việt Nam vẫn được duy trì, nhưng cũng là khoảng thời gian thể
hiện rõ nhất những khó khăn và thách thức đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc; đồng thời cũng là khoảng thời
gian mà từ trước đến nay nhiều nghiên cứu cho rằng hoạt động sản xuất kinh
doanh của tư sản Việt Nam gần như lụi tàn và ít có điểm nổi bật. Tuy nhiên,
thực tiễn lịch sử lại ghi nhận những nỗ lực đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh
doanh của tư sản Việt Nam trong sự đua tranh với tư sản nước ngoài và qua
đó tiếp tục góp phần thúc đẩy quá trình biến đổi của nền kinh tế dân tộc, định
hình văn hóa kinh doanh mới, tạo nên đặc điểm khác với thời kỳ trước đó.
1.3. Thế nhưng, cho đến nay chưa có công trình lịch sử nào nghiên cứu
chuyên sâu và toàn diện về hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản Việt Nam
trong thời kỳ 1930 – 1945, dù vấn đề về tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc đã
được các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu từ rất sớm và có khá
nhiều công trình được công bố. Đặc biệt là, kết quả nghiên cứu về tư sản Việt
Nam cho thấy vẫn còn một số vấn đề lịch sử về tư sản Việt Nam chưa được các
2
nhà khoa học giải quyết thỏa đáng, nhất là việc đánh giá một cách khách quan
về vai trò của giai cấp tư sản Việt Nam đối với lịch sử dân tộc.
1.4. Từ thực tế trên, thiết nghĩ cần phải tiến hành nghiên cứu có hệ thống
và toàn diện về quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất các lĩnh vực và
hình thức kinh doanh của tư sản Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1945, thời kỳ
có nhiều biến động của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc. Từ đó, rút ra những
điểm khác biệt trong hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản Việt Nam so với
thời kỳ trước năm 1930, luận giải tác động của kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh đó đối lịch sử dân tộc thời kỳ 1930 – 1945 và những bài học lịch sử cho
việc hoạch định và thực thi chính sách đối với doanh nhân hiện nay.
Với mong muốn đi sâu tìm hiểu những hoạt động sản xuất kinh doanh của
tư sản Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1945 và giải quyết những yêu cầu khoa
học, thực tiễn nêu trên, tác giả quyết định chọn vấn đề “Hoạt động sản xuất
kinh doanh của tư sản Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945” làm đề tài nghiên cứu
và viết Luận văn Thạc sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử Việt Nam của mình.
2. Tổng quan tinh h ̀
inh nghiên c ̀ ứu vấn đề
Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám 1945 chưa có cuốn sách nào nghiên
cứu sâu về tư sản Việt Nam nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh của tư
sản Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, có khá nhiều bài viết đăng lên các báo, tạp
chí tiếng Việt phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của tư sản Việt Nam
trong thập niên 30, 40 của thế kỷ XX, mà trước hết là tác động của bối cảnh
lịch sử, chính sách kinh tế của thực dân Pháp đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của tư sản Việt Nam. Điển hình như bài “Đuổi người ta thì tội nghiệp
quá” đăng trên báo Phụ nữ tân văn, số ra ngày 11/6/1931 [25], phản ánh cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới tác động đến Việt Nam không chỉ làm cho đời
sống của quần chúng nhân dân rơi vào thảm cảnh, mà những người tiêu thụ
hàng hóa của tư sản Việt Nam bị điêu đứng vì nạn kinh tế khủng hoảng. Bài
viết “Nhà máy xay lúa lớn nhất của người Việt Nam ở Chợ Lớn” đăng trên Hà
thành ngọ báo, số ra ngày 15/11/1930 [45], đề cập đến tình trạng phá sản của
3
một số nhà tư sản Việt Nam. Tuy nhiên cũng có những bài báo đề cập đến tên,
tiềm lực vốn, phương thức kinh doanh của một số xí nghiệp nổi tiếng trên cả
nước thời bấy giờ. Tiêu biểu như bài “Nhị thập chu niên Đắc Lập ấn quán”,
đăng trên Tràng An báo, số ra ngày 12/12/1939 [69], bàn về sự đóng góp của
doanh nhân miền Bắc là Bùi Huy Tín với nhà in Đắc Lập và Báo Tràng An.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, nhất là trong những năm 50 đến những
năm 70 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu về tư sản Việt Nam phát triển mạnh,
giới sử học tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tư sản Việt Nam,
do đó có nhiều công trình nghiên cứu về tư sản Việt Nam ra đời, điển hình như
các công trình “Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc” của Nguyễn
Công Bình [9], “Về giai cấp tư sản Việt Nam: Một số ý kiến về sự hình thành
và phát triển của giai cấp tư sản Việt Nam” của Minh Tranh và Nguyễn Kiến
Giang [73], “Mầm mống tư bản chủ nghĩa và sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản Việt Nam” của Đoàn Trọng Tuyến [76]... Nội dung của các công trình này
cũng đã đề cập đến những nét khái quát về tư sản Việt Nam thời kỳ 1930 -
1945, trong đó có hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ năm 1986 đến nay, nhằm góp phần nghiên cứu sâu tác động của chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp với xã hội Việt Nam, cũng như sự
phân hóa giai cấp và hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản Việt Nam, giới
sử học đã quan tâm nghiên cứu về tư sản Việt Nam, điển hình như: “Sự phát
triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám: Ý thức
hệ tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ lịch sử” của Trần Văn Giàu
[28]. Đặc biệt từ năm 2012 đến nay, tác giả Trần Thanh Hương, Nguyễn Văn
Phượng, Lê Thị Thủy Tiên, Lê Chí Hiệp... thông qua đề tài luận án, luận văn,
đề tài khoa học các cấp như “Tư sản người Việt ở Nam Kì trong ba thập niên
đầu thế kỷ XX”[56], “Tư sản người Việt ở Bắc Kì trong ba thập niên đầu thế
kỷ XX”, “Tư sản người Việt ở Trung Kì từ đầu thế kỷ XX đến năm 1930”[55]
đã đi sâu nghiên cứu khá toàn diện về tư sản Việt Nam ở một khu vực cụ thể,
trong đó có hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng các công trình có tính
4
chuyên sâu này mới chỉ dừng lại ở thời gian nghiên cứu là 30 năm đầu thế kỷ
XX, có rất ít công trình nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về tư sản Việt Nam thời
kỳ 1930 - 1945. Đặc biệt, chưa có công trình nào đề cập đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của tư sản Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945, để từ đó rút ra được những
đặc điểm và đánh giá thỏa đáng về vai trò, những điểm tích cực cũng như hạn chế
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản Việt Nam từ khi cuộc khủng hoảng
kinh tế giới (1929 - 1933) diễn ra đến khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công.
Dầu vậy, các công trình khoa học của các tác giả đi trước và những vấn
đề khoa học đang đặt ra là những cơ sở quý giá, giúp tác giả có nguồn tư liệu
và xác định hướng nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu
của các nhà khoa học đi trước, dựa vào nguồn tài liệu mà tác giả sưu tầm được,
luận văn tập trung nghiên cứu, làm rõ đề tài “Hoạt động sản xuất kinh doanh
của tư sản Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động sản xuất kinh doanh của tư
sản Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu của đề tài giới hạn trong khoảng thời gian từ đầu
năm 1930 đến tháng 8/1945. Nhưng để thấy rõ được quá trình lịch sử của tư
sản Việt Nam mà nhận diện rõ thực trạng, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh
doanh của họ trong thời kỳ 1930 - 1945, nội dung nghiên cứu có đề cập đến
những sự kiện trước năm 1930.
- Không gian nghiên cứu của đề tài là lãnh thổ Việt Nam dưới thời Pháp
thuộc từ năm 1930 đến năm 1945 gắn với sự phân chia đơn vị hành chính và
địa giới hành chính của chính quyền thuộc địa.
- Quy mô nghiên cứu của đề tài tập trung hệ thống hóa hoạt động sản xuất
kinh doanh của tư sản Việt Nam theo từng lĩnh vực kinh doanh. Đồng thời, đề
tài hướng vào tập trung khảo sát những nhà tư sản điển hình trong từng lĩnh
5
vực sản xuất kinh doanh để nhận diện được hình thức, phương thức và quy mô,
hiệu quả sản xuất kinh doanh của tư sản Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích tái hiện lại quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh theo từng lĩnh vực và hình thức sản xuất kinh doanh của của
tư sản Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1945; từ đó rút ra đặc điểm nổi bật trong
sự so sánh với tư sản nước ngoài cũng như đánh giá khách quan tác động của
hoạt động sản xuất kinh doanh đó đối với lịch sử dân tộc cùng thời kỳ.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Nêu và phân tích những nhân tố tác động đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của tư sản Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1945.
- Tái hiện có hệ thống các lĩnh vực và hình thức hoạt động sản xuất kinh
doanh của tư sản Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945.
- Rút ra nhận xét, đánh giá về đặc điểm trên cơ sở so sánh với hoạt động
sản xuất kinh doanh của tư sản Pháp, Nhật trên lãnh thổ Việt Nam và tác động
của hoạt động đó đến lịch sử dân tộc thời kỳ 1930 - 1945.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Đề tài hoàn thành trên cơ sở các nguồn tài liệu khác nhau:
- Các sách chuyên khảo do các cơ quan, cá nhân trong và ngoài nước viết
về tư sản Việt Nam từ đầu đầu thế kỷ XX đến năm 1945.
- Các luận án, luận văn của các tác giả khác đã bảo vệ thành công và các
công trình nghiên cứu liên quan đến sự ra đời, các hoạt động của tư sản Việt
Nam từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945 đã được công bố trên các Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử, Tạp chí Văn - Sử - Địa. Đặc biệt là hệ thống tài liệu lưu trữ dưới
dạng báo cáo, tập san kinh tế Đông Dương, báo chí đương thời tại các Trung
tâm lưu trữ quốc gia, Thư viện quốc gia của Việt Nam và Pháp...
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về giai cấp và sự ra đời của giai cấp tư sản.
- Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic và sự kết hợp giữa hai phương pháp này.
- Bên cạnh đó, để hoàn thành nội dung luận văn, tăng tính thuyết phục cho
những luận điểm khoa học nêu trong luận văn, tác giả còn sử dụng các phương
pháp liên ngành khác như phân tích, so sánh, tổng hợp...
6. Đóng góp của luận văn
Sau khi hoàn thành, luận văn sẽ có những đóng góp chủ yếu sau:
- Luận văn là công trình đầu tiên trình bày một cách tương đối có hệ thống
trên cơ sở khai thác và xử lý các tài liệu thu thập được về hoạt động sản xuất
kinh doanh của tư sản Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1945
- Kết quả của luận văn nêu lên những nhận thức lịch sử khách quan, cụ thể
hơn về địa vị kinh tế của tư sản Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1945; nêu và
đánh giá khách quan đặc điểm về lĩnh vực, hình thức kinh doanh cũng như tác
động của hoạt động sản xuất kinh doanh đó trong thời kỳ 1930 - 1945.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn được cấu tạo thành 3 chương:
- Chương 1. Những nhân tố tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của tư sản Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 (20 trang)
- Chương 2. Các lĩnh vực và hình thức sản xuất kinh doanh của tư sản Việt
Nam thời kỳ 1930 - 1945 (37 trang)
- Chương 3. Nhận xét về hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản Việt
Nam thời kỳ 1930 - 1945 (27 trang)
7
Chương 1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA TƯ SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ 1930 - 1945
1.1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản Việt Nam trước
năm 1930
1.1.1. Khái quát sự ra đời và trưởng thành của giai cấp tư sản Việt Nam
trước năm 1930
Vào đầu thế kỷ XX, điều kiện quốc tế cũng như trong nước cho sự ra đời
của tư sản Việt Nam đã xuất hiện. Chủ nghĩa tư bản cùng với ý thức hệ của nó
trở thành hệ thống thế giới. Làn sóng xâm lược của chủ nghĩa thực dân đã lôi
cuốn những nước phong kiến lạc hậu, trong đó có Việt Nam vào quỹ đạo của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính sách thống trị của thực dân Pháp
vô hình dung đã phá vỡ kết cấu kinh tế cổ truyền, thúc đẩy kinh tế hàng hóa mở
rộng và xuất hiện lớp người lao động làm thuê. Trên cơ sở đó, tư sản Việt Nam
ra đời. Và trước khi ra đời, tư sản Việt Nam cũng đã trải qua quá trình tích lũy
của cải trong tay làm phá sản những người sản xuất nhỏ, để thiết lập nên những
xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử của từng khu vực,
quá trình tích lũy đó có nhịp độ và diễn ra dưới những hình thức khác nhau.
Vừa mới ra đời, tư sản Việt Nam đã tham gia vào các hoạt động kinh
doanh ở khá nhiều lĩnh vực, từ nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp đến
giao thông vận tải, thầu khoán... Trong đó, thương nghiệp là lĩnh vực kinh
doanh có sự tham gia đông đảo nhất của tư sản Việt Nam; lĩnh vực giao thông
vận tải cũng đã xuất hiện một số xưởng sửa chữa ô tô, đặc biệt có nhà tư sản đã
hướng tới mua phương tiện vận tải hành khách và hàng hóa. Tuy nhiên, ở những
ngành công nghiệp hiện đại ít có sự tham gia của họ.
Trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, giai đoạn trước năm 1914, hoạt động
của tư sản Việt Nam còn rất hạn chế. Họ có phần bực bội vì sự chèn ép của tư
bản Pháp và sự kìm hãm của chính quyền thực dân. Nhưng do quá lệ thuộc vào
8
kinh tế của tư bản Pháp và chưa thoát ly được lối bóc lột phong kiến trong các
cơ sở sản xuất, kinh doanh của họ, nên không dám ra mặt chống Pháp và phong
kiến mà chỉ mong muốn có một sự cải tổ để dễ bề làm ăn sinh sống hơn. Thêm
vào đó, tình trạng yếu ớt về thế lực kinh tế đã khiến cho lớp tư sản đầu tiên ở
Việt Nam chưa có một vấn đề gì và cũng chưa dám tỏ thái độ trong cuộc vận
động cách mạng dân tộc dân chủ đầu thế kỷ XX.
Hoạt động nổi bật nhất của Việt Nam giai đoạn trước năm 1914 là lén lút
ủng hộ tiền bạc và cho con em mình tham gia phong trào Đông Du do Phan Bội
Châu và các đồng chí của ông khởi xưởng; đồng thời dùng việc mở mang kinh
doanh, lập các hội buôn, cổ vũ xây dựng, phát triển nền kinh tế dân tộc để hỗ
trợ cho chủ trương đổi mới kinh tế - văn hóa của các sĩ phu Duy tân. Những
hoạt động này ít nhiều đã góp phần vào kết quả của các phong trào nói trên;
đồng thời có tác dụng thức tỉnh lòng yêu nước, ý thức dân tộc và đả phá tư
tưởng phong kiến đã lỗi thời, lạc hậu, nhất là tư tưởng “trọng quan, khinh
thương”, coi thường thực học và thực nghiệp trong việc xây dựng nước nhà.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, giai đoạn trước năm 1914, hoạt động
của tư sản Việt Nam trên các phương diện còn khá khiêm tốn. Thời điểm này,
hàng hóa trên thị trường nếu không phải hàng ngoại hóa nhập cảng thì cũng là
hàng của tư sản Pháp hay của tư sản Hoa kiều ở Việt Nam sản xuất ra, phần lớn
hàng tiêu dùng do thợ thủ công sản xuất: “Của báu núi rừng ta không được
hưởng nguồn lợi, trăm thứ hàng hóa ta không nắm được lợi quyền. Cho đến
các hàng vóc, nhiễu, nhung, len, vải, giày, dép, khăn tay, mục kỉnh, dù che, dầu
hỏa, ống nói, kính hiển vi, kính ảnh, bút Tàu, kim chỉ, khuy cúc, phẩm nhuộm,
xà phòng, diêm, bánh sữa, thuốc bắc, thuốc lá, rượu, chè… không mua của Tàu
thì cũng mua của Tây cả” [6]. Trong khi đó, trên phương diện chính trị - xã hội,
những hành động hưởng ứng cuộc vận động giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX
của tư sản Việt Nam xuất phát từ sự lôi cuốn của phong trào do sĩ phu tiến bộ
khởi xưởng. Đó không phải là hành động xuất thân từ ý thức giai cấp của tư sản
Việt Nam. Bản thân họ mới chỉ là một tầng lớp nhỏ yếu. Họ chưa ý thức được
9
quyền lợi kinh tế, sự kìm hãm của thực dân Pháp là lực cản lớn nhất trên con
đường làm ăn của họ. Đó cũng là nguyên nhân khiến tư sản Việt Nam vẫn chưa
thể là một giai cấp trong cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam.
Bước sang những năm 1914 - 1930, với những tác động thuận chiều nảy
sinh từ bối cảnh lịch sử, tư sản Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ trong sản xuất
kinh doanh. Họ đã có mặt trong những ngành kinh tế quan trọng; lập được
những xí nghiệp sản xuất và những công ty thương mại khá lớn. Do đó, quá
trình tích lũy tư bản được đẩy nhanh, năng lực cạnh tranh trên thương trường
cũng khả quan hơn so với thời kỳ trước. Đồng thời, có những chuyển biến tích
cực trong hoạt động chính trị - xã hội.
Cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) nổ ra, Pháp là nước trực
tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh, hàng hóa của Pháp nhập cảng vào thị trường
Việt Nam ngày càng giảm sút. Do đó, thực dân Pháp đã thi hành chính sách nới
lỏng độc quyền ở thị trường Việt Nam để ổn định tình hình. Với chính sách đó
đã tạo ra “khoảng thời gian vàng” cho tư sản Việt Nam đẩy mạnh hoạt động
sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tăng cường tích lũy tư bản.
Tiếp đó, từ năm 1919, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
hai (1919 - 1929) càng thúc đẩy tư sản Việt Nam gia tăng hoạt động. Và để
nâng địa vị trên thương trường, đồng thời đối phó với những lực lượng kinh tế
khác kìm hãm mình, tư sản Việt Nam sử dụng nhiều biện pháp để mở rộng quan
hệ tư bản chủ nghĩa ở trong nước. Họ ý thức được rằng kinh doanh một cách tự
phát, thiếu hiệp thương và đoàn kết, tương hỗ lẫn nhau trong sản xuất kinh
doanh sẽ dẫn tới chỗ yếu đi trước sức mạnh kinh tế của đối thủ cạnh tranh. Do
đó, họ cùng nhau tập hợp thành “tập đoàn”, “hội” với mục đích bảo vệ quyền
lợi lẫn nhau. Nhiều công ty, hiệu buôn, xưởng sản xuất có quy mô lớn hơn thời
kỳ trước lần lượt ra đời. Vì vậy, địa vị kinh tế của tư sản Việt Nam từ sau năm
1914 được nâng lên đáng kể hơn trước.
Khi địa vị kinh tế được nâng lên, ý thức giai cấp cũng có chiều hướng
trưởng thành hơn. Họ bắt đầu tỏ rõ “sự bực tức” đối với sự chèn ép của tư sản
10
nước ngoài, mà trước hết là tư sản Pháp. Do đó, tư sản Việt Nam đã bắt đầu sử
dụng báo chí để lên tiếng đòi quyền lợi về kinh tế và chính trị. Tiếp đó, ý thức
giai cấp của tư sản Việt Nam nảy sinh, thúc đẩy họ lên tiếng, đấu tranh khá
mạnh mẽ để đòi quyền lợi cho giai cấp mình, thể hiện cả trong đấu tranh củng
cố, bảo vệ lợi ích kinh tế và đấu tranh đòi quyền lợi, địa vị chính trị - xã hội.
Để nâng cao địa vị của mình trên thương trường, tư sản người Việt Nam dùng
nhiều biện pháp mở rộng quan hệ tư bản chủ nghĩa ở trong nước, hiệp thương
và đoàn kết, tương hỗ lẫn nhau trong kinh doanh, biểu hiện rõ nét nhất là họ
tham gia thành lập các “hội” với mục đích bảo vệ quyền lợi cho nhau. Họ có ý
thức cao trong việc dùng hàng nội hóa, sản xuất nhiều mặt hàng thay thế hàng
ngoại nhập, đồng thời lên tiếng cổ vũ thực nghiệp trên báo chí, đấu tranh bảo
vệ quyền lợi cho giới của mình. Đặc biệt, từ sau năm 1919, khi tư sản Việt Nam
đang trên đà phát triển thì cũng là lúc tư bản Pháp tăng cường đầu tư vào Việt
Nam, nên họ càng nhận thấy rõ chính sách của thực dân Pháp là trở lực lớn trên
con đường làm ăn của mình: “đời bây giờ nghề làm ăn chật hẹp, mà người
ngoại quốc đến nước ta ngày càng đông, hễ nghề của mình hơi thấy sa sút thì
họ thừa cơ mà chiếm lấy” [9].
Tư sản Việt Nam phản ứng lại chính sách kinh tế của thực dân Pháp và
đòi quyền lợi. Họ đòi giảm thuế, chống lại ý đồ độc quyền của tư sản Pháp. Ở
một mức độ cao hơn, tư sản Việt Nam tập hợp nhau lại trong các đảng phái
chính trị, đấu tranh đòi tham gia vào hệ thống chính quyền thực dân, nhằm lên
tiếng bảo vệ lợi ích của giới tư sản bản xứ trong xã hội thuộc địa. Do đó, vào
những năm 1919 - 1930, tư sản Việt Nam đã phát triển thành một giai cấp xã
hội thực sự trong cơ cấu xã hội - giai cấp Việt Nam thời Pháp thuộc.
1.1.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của tư sản Việt Nam trước
năm 1930
Khi vừa ra đời, tư sản Việt Nam hoạt động sản xuất kinh doanh trong nhiều
lĩnh vực khác nhau, từ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp đến thầu
khoán, giao thông vận tải... Trong đó, lĩnh vực thương nghiệp có số lượng đông