Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hồ Xuân Hương cọ tình vào đá – Cộng hưởng của sự thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật
MIỄN PHÍ
Số trang
5
Kích thước
126.7 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1430

Hồ Xuân Hương cọ tình vào đá – Cộng hưởng của sự thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Cao Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 163 - 167

163

HỒ XUÂN HƯƠNG CỌ TÌNH VÀO ĐÁ – CỘNG HƯỞNG CỦA SỰ THĂNG HOA

TRONG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT

Cao Hồng*

Trường Đại học Khoa học- ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Vận dụng linh hoạt phương pháp tâm lý học phân tích, lý thuyết siêu mẫu (archetype) của

C.G.Jung (1876-1961) kết hợp với tín ngưỡng phồn thực, nhìn dưới góc độ văn hóa học, Đỗ Lai

Thúy đã thành công khi xây dựng một mô hình nghiên cứu: Thơ Hồ Xuân Hương- văn hóa dâm

tục- tục thờ cúng phồn thực- tín ngưỡng phồn thực. Trên cơ sở của mô hình nghệ thuật này nhà

phê bình đã giải mã biểu tượng và bút pháp nghệ thuật thơ của nữ sĩ qua ba phương diện cơ bản:

1/Những biểu tượng ám ảnh; 2/Sự lấp lửng hai mặt; 3/Triết lý phồn thực. Có thể nói, chính lối phê

bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy thêm một lần nữa đã làm sống lại cái hay, cái đẹp đích thực

của thơ Hồ Xuân Hương mà bấy lâu nay bị chìm khuất trong lớp sương mờ của những thành kiến

hạn hẹp, của những quan niệm bị chi phối bởi ý thức chính thống của xã hội. Có thể coi Hồ Xuân

Hương cọ tình vào đá là sự sáng tạo trên nền của một sáng tạo - sự cộng hưởng của những giá trị

sáng tạo này mang đến cho người thưởng thức những giá trị tinh thần vượt mọi giới hạn thời gian.

Từ khóa: Phân tâm học, Hồ Xuân Hương, văn hóa, phồn thực, vô thức, tín ngưỡng.

Phân tâm học (Psychanalyse) là một trường

phái triết học Tây phương mà ông tổ sản sinh

ra nó là Sigmund Freud (1856-1939)*

- một

bác sĩ người Áo gốc Do Thái. Sau này học

thuyết được tiếp nối và phát triển phong phú

hơn bởi nhiều nhà khoa học như Karl Gustav

Jung, E. Fromm, J.Lacan, G.Bachelard, …

Sự ra đời của phân tâm học được coi là bước

ngoặt của thế kỷ XIX trong việc khám phá

con người, đánh dấu bước phát triển quan

trọng của tư duy nhân loại trong việc nhận

thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của

tâm sinh lý trong con người, trở thành khoa

học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành

vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi

cá thể người. Phân tâm học được coi là khoa

học nhân văn góp phần làm phong phú thêm

văn hóa nhân loại thế kỷ XX. Một trong

những vấn đề cơ bản của học thuyết Freud là

ông đã chứng minh quá trình sáng tạo nghệ

thuật của người nghệ sĩ không chỉ ở ý thức

mà có ngay trong vô thức. Vô thức đóng vai

trò quan trọng trong sáng tạo của người nghệ

sĩ, chính vì vậy nó là điều được các nhà phê

bình văn học quan tâm, chú ý. Vào nửa đầu

thế kỷ XX, phê bình phân tâm học là trường

phái nghiên cứu văn học rất thịnh hành ở

phương Tây, hơn hẳn các phương pháp phê

*

Tel: 0974 088979, Email: [email protected]

bình khác, làn sóng phê bình phân tâm học có

một sự ảnh hưởng lớn đối với nền phê bình

văn học phương Tây đương thời. Có thể kể

đến những tên tuổi nổi tiếng như Ch.Mauron,

Ch.Baudoin, P.Guiraud, G.Bachelard,

L.Spizetr…

Ở Việt Nam, phê bình phân tâm học đã được

giới thiệu từ những năm 30 của thế kỷ XX,

nhưng đáng tiếc, sau 1945 do bị kỳ thị nặng

nề từ nhiều phía nên phương pháp này hầu

như không thấy xuất hiện trên văn đàn miền

Bắc. Trong đời sống văn chương ở miền

Nam, giai đoạn 1954-1975, phê bình phân

tâm học có điều kiện để phát triển hơn, xuất

hiện nhiều công trình dịch thuật, giới thiệu và

ứng dụng [1]. Sau khi đất nước thống nhất

(1975), dưới định hướng lý luận macxit, phân

tâm học vẫn bị xem như một thứ dị thuyết tư

sản phản động, nhục mạ con người, phê bình

phân tâm học là lối phê bình kỳ quặc, thoát ly

đời sống xã hội, lịch sử, chỉ đi tìm dấu ấn của

bản năng tính dục, một thứ bản năng đáng xấu

hổ, phải che giấu, và có lẽ vì vậy nên ít người

dám tìm đến với phân tâm học, lĩnh vực

nghiên cứu này trở nên vắng bóng trên văn

đàn. Thời kỳ đổi mới (sau 1986 đến nay),

dưới ánh sáng của tinh thần dân chủ hóa,

nhiều cấm kỵ được tháo gỡ, phê bình phân

tâm học có cơ hội được phục hồi và phát

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!