Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

hình tượng song hành nam – nữ trong ca dao trữ tình
MIỄN PHÍ
Số trang
33
Kích thước
224.8 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
902

hình tượng song hành nam – nữ trong ca dao trữ tình

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

- 1 -

MỞ ĐẦU

1 . Lí do chọn đề tài

Thời gian như một dòng sông có thể qua đi nhưng sức sống của nó tạo

nên một khuôn mặt riêng luôn là ấn tượng không dễ phai mờ trong nỗi niềm

sâu kín của mỗi con người. Thời gian có thể đem đến cho con người ta tất cả

nhưng đồng thời nó cũng có thể xóa nhòa đi tất cả. Những gì còn sót lại với

thời gian là những kết tinh có giá trị vô cùng to lớn. Và những sáng tác truyền

miệng của Văn học dân gian là những gì còn “sót lại” đó.

Anh đi đàng ấy xa xa

Để em ôm bóng trăng tà năm canh

Nước non một gánh chung tình

Nhớ ai ai có nhớ mình hay chăng

Văn học dân gian là nốt nhạc ngân mãi theo năm tháng cùng nhịp đập

cuộc sống thời đại mỗi người dân Việt. Trong các thể loại của văn học dân

gian, chúng ta không thể không nhắc đến ca dao. Thông qua những hình

tượng trữ tình, gợi cảm, ca dao đã bổ sung, tô đậm và hoàn thiện về bức tranh

cuộc sống của nhân dân lao động. Nhà thơ Xuân Diệu trong Lời bạt cho sách

Dân ca miền Nam - Trung bộ đã viết: “Những câu ca dao từ Nam chí Bắc như

có đất, như có nước, như có cát, có biển, như có những giọt mồ hôi người,

chúng ta sẽ cảm thấy dần dần tụ lại nơi khóe mắt một giọt ướt sáng ngời. Đó

là một giọt tinh túy chắt ra từ ruột rà của non sông”. Trong sự phong phú và

đa dạng của thế giới nhân vật trong ca dao. Chúng ta thấy rằng hình tượng

song hành Nam – Nữ hiện lên một cách chân thực và đầy đủ, đa dạng và sinh

động thể hiện được tâm hồn của người dân lao động Việt Nam. Những cung

bậc tình yêu của hình tượng song hành Nam – Nữ đã trở thành một hình ảnh

đẹp có giá trị lưu lại muôn đời, đi vào tâm hồn con người nhiều thế hệ.

Nghiên cứu về Hình tượng song hành Nam – Nữ trong ca dao trữ tình

không chỉ giúp người viết nghiên cứu, tập dượt mà còn phục vụ cho việc

giảng dạy ca dao sau này. Đồng thời qua đây chúng ta có thể thấy được nét

đẹp tâm hồn và trí tuệ sắc sảo của người dân Việt Nam được thể hiện qua

những câu ca dao thấm đẫm nghĩa tình. Để rồi chúng ta thêm yêu mến và trân

trọng hơn những sáng tác truyền miệng của người dân xưa !.

- 2 -

2 . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu trong đề tài là “Hình tượng song hành Nam -

Nữ trong ca dao trữ tình”

- Phạm vi nghên cứu: Để thực hiện đề tài này chúng tôi đi vào tập trung

khảo sát và sưu tầm một số bài ca dao trong kho tàng ca dao dân gian Việt

Nam có chứa hình tượng song hành Nam - Nữ. Qua đó thấy được nét độc đáo

cái hay và cái đẹp của ca dao - dân ca Việt Nam.

3 . Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Ca dao là tiếng hát trữ tình của nhân dân lao động, là mảnh đất sâu kín

để người dân gửi gắm vào đó những tình cảm chân thực của cuộc sống: tình

yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, nỗi niềm vui buồn của cuộc sống thường

nhật…Nó phản ánh lịch sử xã hội Việt Nam với những phong tục, tập quán

trong các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Bởi

vậy, ca dao dân ca là đề tài được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm.

Những công trình nghiên cứu về ca dao Việt Nam trong mấy thập kỉ

qua là hết sức phong phú và đa dạng với số lượng ngày càng tăng. Trong đó,

những công trình mang tính chất sưu tầm vẫn chiếm đa số. Chẳng hạn như:

Kho tàng ca dao người Việt (tập I, II, III) do nhóm tác giả Nguyễn Xuân Kính

và Phan Đăng Nhật (chủ biên), Tổng tập văn học dân gian người Việt của

trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Ca dao tục ngữ Việt Nam

của tác giả Phương Thu. Trong khi đó những công trình nghiên cứu, phê bình,

bình giảng ca dao lại khá khiêm tốn, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu

như Ca dao Việt Nam và những lời bình của Vũ Thị Thu Hương (tuyển chọn),

Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt của tác giả Lê Đức Luận, Bình giảng ca

dao của Triều Nguyên.

Nguyễn Xuân Kính trong cuốn Thi pháp ca dao đã đi sâu phân loại các

loại biểu tượng, hình tượng và theo ông thì “để tạo nên một hình tượng, biểu

tượng, nghĩa đen và nghĩa biểu vật sẽ không được khai thác ở đây chủ yếu là

nghĩa biểu cảm, nghĩa bóng của ngôn ngữ sẽ phát huy tác dụng tối đa của nó”.

Trong cuốn Văn học dân gian của Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) đã có bài viết

tìm hiểu về nguồn gốc hình tượng và biểu tượng trong ca dao Việt Nam. Bài

viết của Nguyễn Thị Ngọc Điệp đã đưa ra một cách đầy đủ khái niệm biểu

- 3 -

tượng và hình tượng nghệ thuật “Các hình tượng, biểu tượng được hình thành

từ nhiều con đường khác nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú cho hệ thống

thẩm mĩ ca dao. Đáng chú ý là hiện tượng nhiều biểu tượng sóng đôi (song

hành) được hình thành cho thấy nhu cầu thể hiện, giãi bày tâm tư, tình cảm

lứa đôi trong nhân dân là vô cùng to lớn. Điều này hoàn toàn hợp lí và dễ hiểu

vì trong hoàn cảnh khắt khe người dân luôn khát khao vươn tới sự tự do trong

yêu đương mà trước hết là tự do được bày tỏ tình cảm trong lời ca tiếng hát

của mình” .

Về hình tượng song hành (sóng đôi) trong ca dao, Nguyễn Thị Ngọc

Điệp cũng đưa ra nhận định của mình “Bên cạnh những giá trị nội tại với tư

cách là một thành tố của thi pháp ca dao các biểu tượng sóng đôi đã có những

tác động đáng kể đến các thành tố thi pháp khác của thể loại này. Biểu tượng

sóng đôi với số lượng phong phú, cấu trúc đa dạng và chức năng rõ rệt đã góp

phần tạo nên cái hay, cái đẹp trong ca dao”.Tuy nhiên tác giả mới chỉ dừng lại

ở việc đưa ra những luận điểm mà chưa đi sâu vào hình tượng cụ thể.

Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học

đã nêu lên khái niệm song hành một cách tương đối đầy đủ: “Song hành

(sóng đôi, song song) là biện pháp tu từ cú pháp xếp các thành phần cú pháp

của một câu hay nhiều câu cùng một cấu tạo cạnh nhau, thường kèm thêm

phép điệp từ hay cụm từ và phép đối”.

Theo cuốn Từ điển Văn học của Lê Bá Hán (chủ biên) thì “Hình tượng

nghệ thuật trong văn học là làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự

việc, những hình tượng đáng làm ta suy nghĩ về tình cảm và số phận, về tình

người, tình đời trong một chất liệu cụ thể. Hình tượng nghệ thuật chính là cái

khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong

những tác phẩm nghệ thuật”.

TS. Lê Đức Luận trong Giáo trình Thi pháp văn học dân gian đã đưa

ra khái niệm: “Cấu trúc song hành là kiểu cấu trúc thể hiện hai hình ảnh, hai

sự kiện đi song hành với nhau. Biểu hiện của nó là sự đối ứng trong lời ca”.

Trong công trình nghiên cứu Cấu trúc ca dao trữ tình của TS. Lê Đức

Luận đã đưa ra nhận định về hình tượng song hành Nam - Nữ trong ca dao:

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!