Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ việt nam giai đoạn 1955 - 1965.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
VŨ THỊ HƢƠNG
HÌNH TƢỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG
THƠ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955 - 1965
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng, Năm 2015
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN NGỌC THU
Phản biện 1: TS. BÙI BÍCH HẠNH
Phản biện 2: PGS.TS. HỒ THẾ HÀ
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn
tốt nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại
học Đà Nẵng vào ngày 5 tháng 12 năm 2015
Có thể tìm luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu thơ từ lâu đời.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời đã mở ra một thời đại mới cho lịch sử
dân tộc và lịch sử văn học nước nhà.
Nhìn lại tiến trình phát triển của nền văn học hiện đại
Việt Nam, thơ ca luôn là dòng chảy lưu giữ ký ức về cuộc sống và
tâm hồn dân tộc qua từng chặng đường lịch sử. Nối tiếp truyền
thống thơ ca kháng chiến chống Pháp (1946-1954), thơ ca Việt
Nam giai đoạn 1955 - 1975 đã ra đời và phát triển trong một hoàn
cảnh lịch sử đặc biệt mà chặng đường 1955-1965 là giai đoạn
chuyển tiếp, giai đoạn “bản lề” giữa thơ ca thời kỳ chống Pháp và
cao trào thơ ca thời chống Mĩ, cứu nước trên cả hai miền Nam
Bắc (1965-1975) trong công cuộc dựng xây và ra trận giành thống
nhất nước nhà.
Đặc trưng của thế giới nghệ thuật thi ca là sự thể hiện
hình tượng nhân vật cái tôi trữ tình. Tìm hiểu hình tượng cái tôi
trữ tình trong thơ ca Việt Nam giai đoạn 1955-1965 không chỉ để
hiểu về bản chất của thơ ca mà còn để hiểu thêm một chặng
đường lịch sử tâm hồn của dân tộc. Vì cho đến ngày nay, sau 40
năm đất nước thống nhất, thời gian hơn nửa đời người, quá khứ có
thể phôi pha, chúng ta có thể quên lãng nhiều điều nhưng không
thể quên một thời kỳ đau thương mà vô cùng cao cả - thời kì đấu
tranh để non sông nối liền một dải, Bắc - Nam sum họp một nhà.
2
Những trang thơ ấy, mỗi lần đọc lại vẫn gợi bao xúc động, với
những tình cảm thiêng liêng và sâu lắng.
Do đó, việc đi sâu nghiên cứu đề tài này cũng là một dịp
để hiểu thêm vẻ đẹp đau thương mà hào hùng của đời sống dân
tộc trong những năm tháng không thể nào quên ấy. Đồng thời,
tiếp cận đề tài này còn có ý nghĩa thiết thực giúp ích cho việc dạy
học thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Những bài viết nổi bật có liên quan gián tiếp đến
đề tài
Trước hết là bộ sách “Nhà văn Việt Nam (1945-1975)”,
gồm hai tập, của Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức do Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp ấn hành năm 1979. GS Hà Minh Đức
đã nêu nhận xét về thơ Việt ở chặng đường 1954-1964 như sau:
“Cảm hứng về đất nước anh hùng, tổ quốc xã hội chủ nghĩa giàu
đẹp vẫn là cảm hứng chủ đạo trong thơ ca suốt một giai đoạn
mới. Trong thơ ca có tiếng nói da diết nhớ thương về tình cảnh
đất nước còn bị chia cắt hai miền.”[9, tr.117].
Các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác, Trần Hữu
Tá, trong giáo trình Văn học Việt Nam (1945-1975), Tập I, Nxb
Giáo dục, 1983, khi nhìn lại chặng đường văn học 1954-1964
cũng đã có những trang đề cập đến thành tựu và đặc điểm của thơ
ca. [34, tr 79;93].
Công trình Nhà thơ Việt Nam hiện đại của Viện Văn học,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984 đã tuyển chọn và giới thiệu
32 gương mặt nhà thơ Việt Nam hiện đại. Qua đó cũng có thể
giúp cho người đọc nhận diện gương mặt cái tôi trữ tình qua từng
3
chặng đường thơ Việt Nam hiện đại trong đó có nhắc đến chặng
đường 1955-1965.
Khi tìm hiểu Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam
1945-1975 (Nxb Giáo dục, 2000) của tác giả Vũ Duy Thông đã
khảo sát thơ qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế
quốc Mĩ. Qua cách tiếp cận của tác giả và nhất là qua phần tuyển
thơ, người đọc cũng có thể cảm nhận được phần nào về cái tôi trữ
tình ở chặng đường thơ giai đoạn 1955-1965.
Công trình Nhìn lại một chặng đường văn học của tác
giả Trần Hữu Tá, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,2000, giúp thêm
cách tiếp cận với cái tôi trữ tình của các nhà thơ trong phong trào
yêu nước của trí thức và thanh niên, học sinh, sinh viên ở đô thị
miền Nam nước ta giai đoạn 1955-1975.
Năm 2001, trong cuốn Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, Mã Giang Lân đã có một chương viết
riêng về đặc điểm chung của thơ Việt Nam hiện đại ở giai đoạn
1954-1964.
Những thế giới nghệ thuật thơ là một công trình
nghiên cứu có giá trị của Trần Đình Sử (Nxb Giáo dục - Hà
Nội, 1997). Khi viết về thơ 1955 - 1975, tác giả đã có những
nhận xét rất xác đáng về nghệ thuật thơ cách mạng: Về mặt nghệ
thuật, thơ cách mạng đã sáng tạo ra một thế giới sử thi độc
đáo [42, tr.100].
Trong chuyên luận Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt
Nam (1945-1995), Nxb Khoa học xã hội (1999), tác giả Vũ Văn
Sĩ đã nhận định Thơ trữ tình Cách mạng Việt Nam là linh hồn của
thơ Việt Nam thế kỷ XX … Nhu cầu bộc lộ mình trong sự kiện,
4
nhu cầu nhận thức sứ mệnh lịch sử của con người trong biến cố
đã in dấu ấn vào hình thức nghệ thuật cái bóng dáng tinh thần
của nhà thơ, làm thay đổi diện mạo và cấu trúc thơ trữ tình.
[40, tr7,8]
Và gần đây nhất năm 2015, Bùi Bích Hạnh đã công trình
nghiên cứu Thơ trẻ Việt Nam 1965-1975 khuôn mặt cái tôi trữ
tình, Nxb Văn học. Trong bộ sách, tác giả đã xác định những
dạng thức cái tôi trữ tình để khái quát hệ thống quan điểm thẩm
mĩ cũng như năng lực chiếm lĩnh hiện thực của người nghệ sĩ;
trên cơ sở đó khẳng định thuộc tính thơ trẻ giai đoạn này [20,
tr8]. Theo tác giả, việc khảo sát diện mạo cái tôi trữ tình trong
thơ trẻ để hướng tới luận giải một cách thỏa đáng hơn đặc điểm
thơ 1965-1975; khôi phục khuôn mặt vốn đa diện của thơ Việt
Nam 1945-1975.
..v.v…
2.2. Một số bài viết và công trình nghiên cứu liên quan
trực tiếp đến đề tài
Đó là những bài viết của Hoài Giang, Hà Xuân Trường,
Bảo Định Giang, Lê Đình Kỵ viết về tập Gió Lộng (1961) của Tố
Hữu. Các bài của Xuân Diệu, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức viết về
tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960) của Chế Lan Viên. Các bài
của Phan Cự Đệ, Lê Nhuệ Giang,Vũ Đức Phúc viết về các tập thơ
Mũi Cà Mau, Riêng chung (1960), Một khối hồng (1964) của
Xuân Diệu. Các bài của Vũ Tuấn Anh, Lê Đình Kỵ, Đỗ Hữu
Tấn, Nguyễn Đình, Hoàng Minh Châu, Thiếu Mai viết về các tập
thơ Lòng miền Nam (1955), Gửi miền Bắc (1958), Tiếng sóng
(1960), Hai nửa yêu thương (1963) của Tế Hanh…
5
Tuy nhiên những bài viết của các nhà nghiên cứu về các
tập thơ thường hướng theo phân tích tác phẩm, nghiêng về khẳng
định những thành công và đóng góp của tập thơ, khẳng định vị trí
của tập thơ trong quá trình sáng tác của tác giả mà chưa đi sâu vào
tìm hiểu về hình tượng cái tôi trữ tình. Từ đó họ khẳng định
phong cách sáng tác của nhà thơ. Do đó, phần lớn các bài viết chỉ
mang tính chất nhận xét, đánh giá đơn lẻ chưa tập trung làm nổi
bật hình tượng cái tôi trữ tình của thơ giai đoạn 1955 - 1965 ở cả
hai miền Nam - Bắc.
Cũng có một số luận án tiến sĩ, luận văn cao học, khóa
luận tốt nghiệp đại học đã làm về thơ hiện đại Việt Nam qua từng
chặng đường, qua từng tác giả, tác phẩm cụ thể; nhưng qua chúng
tôi tìm hiểu chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu đề
tài này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam giai đoạn
1955 - 1965
3.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu khảo sát các
tập thơ, bài thơ nổi bật của các tác giả tiêu biểu trong giai đoạn
1955-1965. Bên cạnh đó để làm rõ đặc điểm hình tượng cái tôi trữ
tình trong thơ Việt Nam 1955-1965, chúng tôi chọn lọc những tác
phẩm thơ tiêu biểu ở các giai đoạn khác để so sánh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp hệ thống - phân loại
Phương pháp so sánh - lịch sử
6
Phương pháp phân tích - tổng hợp
5. Những đóng góp của luận văn
Tìm hiểu về Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ 1955 -
1965, luận văn giúp nắm bắt và hiểu rõ hơn về cái tôi trữ tình
biến hóa đa dạng làm nên bản sắc riêng cho thơ ca một giai đoạn;
góp phần thấy được tiến trình phát triển của thơ Việt Nam
hiện đại.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể bổ sung tài liệu
tham khảo thiết thực cho dạy học phần thơ ca Việt Nam hiện đại ở
trong nhà trường.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Về cái tôi trữ tình và bối cảnh xuất hiện cái tôi
trữ tình trong thơ Việt Nam giai đoạn 1955-1965.
Chương 2: Những đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ
Việt Nam giai đoạn 1955-1965.
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ
Việt Nam giai đoạn 1955-1965.
7
CHƢƠNG 1
VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ BỐI CẢNH XUẤT HIỆN CÁI
TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1955-1965
1.1. LOẠI HÌNH TRỮ TÌNH VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ
1.1.1. Loại hình trữ tình
Khái niệm trữ tình được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, trữ
tình là một trong ba phương thức miêu tả trong văn học; thứ hai,
trữ tình là một loại hình văn học bên cạnh các loại hình tự sự,
kịch. Ở nghĩa thứ nhất khái niệm trữ tình để chỉ phương thức
miêu tả của văn học, đó là phương thức thiên về diễn tả, bộc lộ
cảm xúc. Ở nghĩa thứ hai khái niệm trữ tình để chỉ một loại tác
phẩm văn học mà ở những tác phẩm này chủ yếu dùng phương
thức trữ tình để miêu tả, các tác phẩm loại này được gọi là tác
phẩm trữ tình.
1.1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ
Cái tôi trữ tình là hình tượng trung tâm bộc lộ tâm hồn,
tình cảm của tác giả trong thơ trữ tình. Cái tôi trữ tình là sự thể
hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con người
thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra
một thế giới tinh thần độc đáo mang tính thẩm mỹ nhằm truyền
đạt tinh thần đến người đọc.
Cái tôi trữ tình bộc lộ trong thơ với nhiều dạng thức:
- Có khi cái tôi trữ tình thể hiện trực tiếp trong thơ bằng
chữ tôi hoặc ta.
- Cái tôi trữ tình bộc lộ gián tiếp qua cảnh ngộ, sự việc
8
trong thơ.
- Tác giả phân thân để nhập vai vào từng số phận, đối
tượng để triết luận, bình luận hoặc ngợi ca, nhằm sẻ chia, bộc lộ
cảm xúc, tâm trạng.
1.2. BỐI CẢNH XUẤT HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG
NỀN THƠ VIỆT NAM 1955 - 1965
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội của đất nƣớc
Sau hiệp định Giơnevơ 1954, Việt Nam bị chia cắt thành
hai miền Nam - Bắc. Miền Bắc hòa bình, bắt tay vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội, miền Nam tạm thời chịu sự quản lí của Mĩ và
chính quyền Sài Gòn. Những năm dưới thời Ngô Đình Diệm, cả
miền Nam khi ấy quằn quại, đau thương trong sự đàn áp, khủng
bố cực kì dã man của quân thù.
Toàn dân tộc Việt Nam đã tập trung mọi nguồn lực, tinh
thần vào cuộc đấu tranh chống Mĩ, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Từ trong phong trào Đồng khởi, Mặt trận dân tộc
và giải phóng miền Nam ra đời ngày 20-12-1960 là một thắng
lợi chính trị to lớn. Từ 1961-1965 phát huy sức mạnh đoàn kết
của dân tộc, miền Nam đã đánh thắng Chiến tranh đặc biệt, một
hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ. Ta đã
đánh bại được âm mưu thâm độc dùng người Việt đánh người
Việt của kẻ thù... Những thành quả ấy ngày một tiếp thêm sức
mạnh, niềm tin cho toàn dân vững bước đấu tranh giành độc lập
tự do, thống nhất đất nước.
9
1.2.2. Thơ 1955-1965 trong tiến trình thơ hiện đại Việt
Nam
Thơ là tiếng nói của cái tôi trữ tình. Trong thơ Việt Nam,
hình tượng cái tôi trữ tình đã không ngừng vận động tạo nên
những dấu ấn riêng qua từng thời kì, từng giai đoạn.
Trong văn học trung đại, thơ trữ tình Việt Nam bị ràng buộc
bởi lễ giáo phong kiến. Các nhà thơ khi sáng tác luôn mang nặng
quan niệm văn dĩ tải đạo, thi ngôn chí…
Thoát ra khỏi những quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ
dày đặc của thơ trung đại, cái tôi Thơ mới được giải phóng về tình
cảm, cảm xúc. Thơ mới là tiếng thơ của ý thức cá nhân - cá thể của
con người được thức tỉnh.
Thơ kháng chiến (1946-1954) tập trung biểu hiện những tình
cảm của cộng đồng và tinh thần công dân mà bao trùm là tình yêu
nước với những biểu hiện phong phú. Nhiều sáng tác có giá trị đều
thể hiện quan niệm thẩm mĩ của thời đại, đó là tính dân tộc và đại
chúng. Con người kháng chiến sống với những biến cố dữ dội,
những sự kiện lịch sử, những rung động mạnh mẽ, mới lạ; họ chỉ
thực sự thấy được sức mạnh, niềm vui và niềm tin tưởng ở trong đội
ngũ đông đảo của tập thể, của giai cấp và dân tộc. Đó chính là cái tôi
trữ tình hòa trong cái ta.
Cái tôi trữ tình trong thơ giai đoạn 1955-1965 nền
tảng tư tưởng của nó là sự thống nhất riêng - chung. Một
trong những dấu hiệu rõ ràng nhất của sự phát triển và mở
rộng ấy là sự hiện diện trở lại của cái tôi riêng tư.
Sáng tác thơ ca là một nhu cầu tự biểu hiện của người
nghệ sĩ, một sự thôi thúc tự bên trong nhiều khi mãnh liệt, dồn
10
dập bởi sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan cũng như khách
quan gây nên. Trong thơ, vấn đề chủ thể, cái tôi trữ tình có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Cái tôi trữ tình là nhân tố vận động
chịu sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử, xã hội và bối cảnh đời
sống văn học. Thơ 1955 – 1965 đã nắm bắt một cách sâu sát yêu
cầu của thời đại; một mặt tiếp nối dòng chảy dạt dào của cái tôi
trữ tình thơ ca trước đó, mặt khác đã tạo nên được sắc diện riêng
khó lẫn, khó phai nhòa trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam.