Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hiệu quả Hall và vài suy nghĩ về tính sáng tạo của sinh viên đại học pdf
PREMIUM
Số trang
110
Kích thước
1.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
919

Hiệu quả Hall và vài suy nghĩ về tính sáng tạo của sinh viên đại học pdf

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Hiệu ứng Hall và vài suy nghĩ về tính sáng tạo của sinh viên Ðại

học

Ở đại học việc tự học của sinh viên đóng vai trò rất quan trọng. Một trong những nguồn

kích thích sự tự học chính là việc nghiên cứu khoa học. Không đâu xa, ngay trong chính

những kiến thức chúng ta học hàng ngày vẫn còn vô số những điều cần tư duy, cần sự

nghiên cứu. Thực tế không ít những giải thương Nobel bắt nguồn từ những câu hỏi “ngớ

ngẫn” của sinh viên. Bài viết sau được phỏng dịch một phần của bài báo “ A Topological

Look at the Quantum Hall Effect” đăng trên tạp chí Physics Today – August 2003. Hiệu

ứng này các bạn được học trong môn “Nhập môn vật lý chât rắn” và chắc các bạn không

ngờ là nó được tìm ra bởi cậu sinh viên Hall, và giải thưởng Nobel năm 1985 đã trao cho

hiệu ứng Hall lượng tử ….

Câu chuyện về hiệu ứng Hall bắt đầu từ một sai lầm của James Clerk Maxwell (1831-

1879) Trong cuốn “Luận về thuyết Điện từ” xuất bản lần đầu tiên năm 1873, Maxwell đã

thảo luận về sự thay đổi dòng điện dưới tác dụng của từ trường. Trong đó ông cho rằng:

“Cần đặc biệt lưu ý rằng lực (gây ra bởi điện trường) đặt lên dây dẫn sẽ không tác dụng

trực tiếp lên dòng điện mà tác động lên dây dẫn mang dòng điện đó.”

Năm 1878, Edwin Herbert Hall (1855 - 1938), một sinh viên của trường ĐH Johns

Hopkins, đọc quyển sách trên trong một khóa học do giáo sư Henry Rowland (1848-

1901) dạy. Hall hỏi ý kiến Rowland về nhận xét của Maxwell. Vị giáo sư này trả lời rằng

ông “nghi ngờ tính xác thực của kết luận đó của Maxwell và ông cũng đã từng vội vã tiến

hành một thí nghiệm kiểm chứng… và đã không thành công.”

Hall quyết định tiến hành một cuộc thí nghiệm khác theo cách khác nhằm đo lường từ trở

(magneto-resistance), có nghĩa là đo sự thay đổi của điện trở theo từ trường đặt vào. Như

ngày nay chúng ta đã biết, đó là một cuộc thí nghiệm phức tạp hơn thí nghiệm của giáo

sư Rowland nhiều, và cũng đã thất bại. Có vẻ như khẳng định của Maxwell là đúng. Tuy

nhiên, sau đó Hall quyết định làm lại thí nghiệm của Rowland. Theo sự chỉ dẫn của người

thầy giàu kinh nghiệm này, Hall thay thế dây dẫn kim loại ban đầu bằng một lá vàng

mỏng. Việc này đã bù lại cho một thiếu sót của thí nghiệm Rowland. Nguyên nhân ở chổ

lúc đó chỉ có thể tạo ra từ trường yếu trong điều kiện phòng thí nghiệm. Vì vậy hiệu ứng

chỉ có thể quan sát được nếu kim loại dẫn điện rất tốt như vàng.

Và đúng như vậy, điều đó đã làm nên chuyện. Biểu đồ do Hall lập ra để khảo sát mà giờ

đây được coi là hiệu ứng Hall được trình bày ở trong bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào về

lý thuyết chất rắn.. Hall nhận thấy rằng trái ngược với khẳng định của Maxwell, từ trường

luôn làm thay đổi sự phân bố điện tích, và vì vậy làm lệch kim của điện kế nối với các

mặt bên của dây dẫn điện. Hiệu điện thế ngang giữa các mặt được gọi là điện thế Hall.

Độ dẫn điện Hall về bản chất chính là bằng cường độ dòng điện theo chiều dọc chia cho

điện thế ngang này.

Phát hiện này đã mang lại cho Hall một chỗ làm tại trường Harvard. Công trình của ông

được xuất bản năm 1879, năm Maxwell mất vào tuổi 48. Hai năm sau đó, sách của

Maxwell được tái bản lần hai vào năm 1881, trong đó có một chú thích lịch sự ở cuối

trang của nhà xuất bản là: “Ông Hall đã phát hiện rằng một từ trường ổn định có thể làm

thay đổi chút ít sự phân bố dòng điện trong phần lớn các dây dẫn, vì vậy tuyên bố của

Maxwell chỉ được xem như là gần đúng.”

Ở đây chúng ta thấy rằng cường độ và ngay cả dấu của điện thế Hall phụ thuộc vào tính

chất của nguyên liệu làm nên dây dẫn – lá vàng mỏng trong thí nghiệm của Hall. Điều

này đã làm cho hiệu ứng Hall trở thành một công cụ dự đoán quan trọng trong việc khảo

sát các hạt dẫn mang điện. Ví dụ như việc đưa đến lý thuyết về lỗ trống tích điện

dương như là hạt mang điện trong chất rắn. Mặc dù Maxwell đã sai lầm, ông cũng đã

khơi dậy một nghiên cứu thành công và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong vật lý.

Một thế kỷ sau, hiệu ứng Hall lại được chú ý như nguồn sinh lực cho các nghiên cứu vật

lý mới. Năm 1980, tại phòng thí nghiệm từ trường mạnh Grenoble tại Pháp, Klaus Von

Klitzing (sinh năm 1943, giải Nobel năm 1985) nghiên cứu điện dẫn Hall cho khí điện

tử hai chiều ở nhiệt độ rất thấp. Ông ta tìm thấy rằng , xét về bản chất, thì điện dẫn Hall là

hàm của cường độ từ trường vuông góc với mặt phẳng của khí điện tử và được mô tả

dưới dạng đồ thị hình bậc thang của các đoạn ngang liên tục. Với một độ chính xác hoàn

toàn bất ngờ, những giá trị liên tiếp tăng dần của điện dẫn Hall luôn là bội số nguyên của

một hằng số cơ bản tự nhiên:

e2

/h = 1/ (25 812.807 572 Ω)

bất kể những chi tiết hình học khác nhau của thí nghiệm hay những điểm không thuần

chất của vật liệu dùng làm thí nghiệm. Klaus Von Klitzing đã đoạt giải Nobel vật lý năm

1985 vì đã khám phá ra hiệu ứng lượng tử Hall và độ chính xác của hiệu ứng này đã cung

cấp cho các nhà đo lường học một chuẩn cao cấp cho đơn vị điện trở.

Hiệu ứng Hall lượng tử cũng dẫn đến một phương pháp đo lường trực tiếp hằng số cấu

trúc tinh tế e2

/hc với độ chính xác hiển nhiên cho ra giá trị 1/137.0360. 0300(270).

Phương pháp khác dựa trên việc đo moment từ dị thường của điện tử thực sự cho hằng

số cấu trúc tinh tế một kết quả chính xác hơn. Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi một nỗ

lực tính toán khổng lồ - gồm hơn 1,000 giản đồ Feynman (Richard P. Feynman ([1918-

1988], Nobel Vật lý năm 1965) và việc mắc sai lầm khi tính toán rất dễ xảy ra.

Làm sao chúng ta có thể giải thích được độ chính xác đáng kinh ngạc của sự lượng tử hóa

trong hiệu ứng Hall lượng tử khi mà độ chính xác này không phụ thuộc vào ngẫu nhiên

của vật liệu thí nghiệm ? Ở đây rõ ràng một điều là các mẫu vật khác nhau có các tạp

chất khác nhau, cấu trúc hình học khác nhau và mật độ điện tử khác nhau. Một trong

những tiến bộ về mặt lý thuyết phát sinh từ câu hỏi này là việc phát hiện ra rằng điện dẫn

Hall khi ở trạng thái bình ổn có liên quan đến tính chất tôpô của không gian..Hiện nay

người ta đã tìm ra mối liên hệ giữa hiệu ứng Hall lương tử với bất biến tôpô đặc trưng

bằng các số Chern.

Các bạn muốn hiểu sâu hơn về vấn đề này có thể đọc tiếp bài báo trên tạp chí Physics

Today. Ở đây người viết chỉ muốn đế cập đến lịch sử tìm ra hiệu ứng để thấy rằng sinh

viên có thể làm được nhiều điều ngoài việc giải các bài tập ở lớp. Xin kết thúc bài viết

này bằng một câu chuyện vui về sinh viên

Một lần nọ ở cuộc thi vấn đáp cậu sinh viên nhận được câu hỏi: Hãy chỉ ra phương pháp

dùng phong vũ biểu để đo chiều cao của một cao ốc. Tất nhiên ở đây giáo sư muốn sinh

viên nhớ đến sự liên hệ giữa áp suất khí quyển với chiều cao. Đo áp suất suy ra được

chiều cao. Tuy nhiên câu trả lới của sinh vịên như sau : Ta lấy sợi dây chỉ , đem buộc vào

phong vũ biểu sau đó đứng trên cao ốc thả xuống dưới, đo chiều dài sợi dây sẽ biết được

chiều cao. Vị giáo sư : cần đưa ra cách đo có áp dụng tính chất vật lý. Sinh viên tra lời :

Ta ném cái phong vũ biểu tứ trên cao ốc xuông đất. Dùng đồng hồ bấm giây đo thời gian

chạm đất ta tim được

h = 1/2 gt²

Giáo sư: cần có phương pháp sử dụng tính chất của phong vũ biểu.

Sinh viên : ta co thể sử dụng chiều cao của phong vũ biểu bằng cách dựng đứng phong vũ

biểu. Đo bóng của phong vũ biểu và bóng của cao ốc do mặt trới chiếu xuống. Biết chiều

cao của phong vũ biểu ta suy ra chiều cao của cao ốc. Cuộc đối đáp còn kéo dài và cậu

sinh viên đưa ra trên mười cách đo khác nhau. Cuối cùng không chịu nổi, vị giáo sư nói :

cần đưa ra cách đơn giản nhất và sử dụng trực tiếp cái phong vũ biểu. Sinh viên : nếu thế

thi mình đem cái phong vũ biểu này biếu cho người quản lý cao ốc và nhờ anh ta cho

xem bản thiết kế chắc chắn sẽ có câu trả lời chính xác. ….

Cậu sinh viên đó sau này trở thành nhà vật lý vĩ đại, nếu tác giả không nhầm thì đó chính

là Niels Bohr, được giải Nobel Vật lý năm 1922 và câu chuyện do Ernest Rutherford

(1871-1937) kể. Rutherford với thí nghiệm lừng danh bắn phá nguyên tử lá vàng bằng

chùm hạt alpha và đã tìm ra cấu trúc nguyên tử nên đã được giải Nobel Hóa học năm

1910.

Kết luận : hãy sáng tạo ngay khi còn là sinh viên

Lê Văn Hoàng

Tiến Sỹ Khoa Học

ĐH Sư phạm Tp. HCM, khoa Vật lý

Email: [email protected]

Sáng tạo là gì?

Bài 1:

Là dám nghĩ khác và dám làm khác. Vậy thôi!

1. Ðùa với não bạn một chút!

Bạn hãy trả lời trước khi nhìn giải đáp: "Jack được trả 5 đôla cho một lần cưa khúc gỗ ra

làm đôi. Vậy Jack được trả bao nhiêu tiền để cưa khúc gỗ ra làm bốn?".

"Có 2 người ngồi trước cửa siêu thị và chơi cờ tướng. Họ chơi 5 ván. Mỗi người đều

thắng 3 ván. Sao lại thế?".

Ðây là giải đáp:

Câu 1: 15 đôla, vì để cưa khúc gỗ ra làm đôi thì chỉ cần một lần cưa, nhưng để cưa một

khúc gỗ ra làm 4 thì cần 3 lần.

Câu 2: Bởi vì 2 người này chơi với 2 người khác nhau.

Ðây là 2 trong số nhiều câu "đố mẹo" đơn giản nhất. Chúng đánh lừa não bạn vì não bạn

có xu hướng suy nghĩ theo kiểu "mặc định": 2 người chơi cờ thì "mặc định" là họ chơi

với nhau, cưa khúc gỗ làm đôi được 5 đôla thì cưa làm 4 (2x2) thì "mặc định" là được trả

5x2=10 đôla... Trong khi đề bài không hề có những dữ kiện như vậy. Tại sao bạn lại

"mặc định" như thế? Ðó chính là sức ỳ tâm lý làm cho não bạn bị mắc lừa ở những câu

đố đòi hỏi nghĩ sáng tạo.

Nghĩ sáng tạo là nhìn một vấn đề, một câu hỏi... theo những cách khác với thông thường.

Tức là nhìn mọi thứ từ các góc độ, tầm nhìn khác nhau, "nhìn" theo những cách không bị

hạn chế bởi thói quen, bởi phong tục, bởi tiêu chuẩn...

2. Nghĩ sáng tạo xa hơn

Những câu chuyện về nghĩ sáng tạo không phải chờ đến thời kỹ thuật hiện đại. Từ những

năm 1400, Nữ hoàng Isabella của Tây Ban Nha có lần yêu cầu mọi người tìm cách để quả

trứng đứng thẳng trên một đầu của nó, mà không được dùng cái đế gì kê ở dưới.

Tất cả các vị quan trong triều đình đều vò đầu bứt tóc chịu thua. Nhưng rồi một thuỷ thủ

trẻ bước đến, đập vỡ một đầu của quả trứng và dựng nó lên bằng đầu đó. Tất nhiên, ruột

trứng chảy hết ra và các quan thì vô cùng tức giận. Nhưng Nữ hoàng thì không. Nữ hoàng

chưa bao giờ nói rằng không được đập vỡ trứng, còn các quan đã nghĩ "mặc định" là như

thế.

Và Christopher Columbus - một thuỷ thủ - bằng cách nghĩ ra bên ngoài chiếc hộp (lần

này có lẽ là bên ngoài cái vỏ trứng!), đã giải quyết được vấn đề. Ông được Nữ hoàng

cung cấp tàu và tiền để bắt đầu chuyến phiêu lưu của mình.

Thực ra, đây là một ví dụ rõ ràng về một con người không chấp nhận bị giới hạn bởi

những suy nghĩ thông thường. Columbus lên tàu đi vòng quanh thế giới, trong khi tất cả

mọi người lúc đó còn khẳng định là thế nào rồi ông cũng đi đến "rìa" thế giới và rơi tõm

ra ngoài.

3. Ứng dụng của nghĩ sáng tạo

Nếu sức ỳ tâm lý của bạn vẫn còn lớn, e rằng đến bây giờ bạn lại "mặc định" rằng vậy ra

"nghĩ sáng tạo", nói vòng vo mãi, cuối cùng cũng chỉ để... giải các câu đố!!!

Bạn hãy nghe câu chuyện này. Có 2 người làm bánh quế, với chất lượng và giá cả như

nhau. Khi mọi người chán ăn bánh quế và không mua nữa, một người bán chẳng biết làm

sao và bỏ nghề. Trong khi đó, người còn lại đã "thiết kế" bánh quế kiểu mới bằng cách

cuộn tròn nó lại theo hình nón và tạo ra một sản phẩm mới hoàn toàn: ốc quế cho kem.

Như vậy, người bán hàng thứ nhất đã không thể đi tiếp được, còn người thứ hai đã

chuyển dịch ra ngoài giới hạn và những mặc định thông thường.

Nếu không có sự "nghĩ sáng tạo" của người thứ hai, hẳn bây giờ chúng ta vẫn chỉ biết ăn

kem que hoặc dùng thìa múc từ cốc (hoặc nếu không có ai nghĩ sáng tạo từ ban đầu thì có

thể chúng ta thậm chí còn chẳng có kem mà ăn!).

Khả năng nghĩ sáng tạo càng trở nên cực kỳ quan trọng trong thế giới kinh doanh thay

đổi nhanh chóng như hiện nay.

4. Những phẩm chất của một người nghĩ sáng tạo

- Ðộc lập.

- Tự tin.

- Chấp nhận rủi ro.

- Nhiều năng lượng.

- Nồng nhiệt.

- Không gò bó.

- Thích phiêu lưu.

- Tò mò, hiếu kỳ.

- Nhiều sở thích.

- Hài hước.

- Trẻ con, hiếu động.

- Biết nghi ngờ.

Thực tế cuộc sống không phải là một cái hộp, nên bạn đừng tự tạo ra rồi chui vào đó!

5. Bạn có thể học để nghĩ sáng tạo

Ai trong chúng ta cũng có sự sáng tạo, và tin tốt là nếu bạn thấy mình "chưa" (chứ không

phải là "không") sáng tạo, bạn có thể học. Công việc càng khó thì não bạn hoạt động càng

tích cực. Theo nghiên cứu thì đến thiên tài cũng mới sử dụng có 15% hiệu suất não của

mình! Cho nên, học nghĩ sáng tạo để não bạn đi xa hơn là hoàn toàn có thể. Thậm chí, có

rất nhiều gợi ý cho cách học nghĩ sáng tạo.

a. Phương pháp SAEDI - "SAEDI"

không phải là từ gì quái dị, nó là từ "IDEAS" viết lộn ngược. Ðôi khi, nghĩ sáng tạo chỉ

cần bạn nhìn mọi thứ theo chiều khác đi.

S = State of mind (cách suy nghĩ): Tự nói rằng "Tôi chẳng sáng tạo chút nào" hoặc "Tôi

chẳng bao giờ có ý tưởng gì hay ho đâu" sẽ huỷ hoại sức sáng tạo của bạn. Nghĩ sáng tạo

đòi hỏi nghĩ tích cực.

A = Atmosphere (không khí). Có những người thích ở nơi đông người mới nghĩ ra nhiều

thứ. Có những người lại phải ngồi một mình yên tĩnh mới sáng suốt được. Bạn hãy tạo

cho căn phòng mình có không khí tuỳ theo sở thích. Nếu bạn có nhiều ý tưởng khi đang...

đi, hãy chăm đi dạo ở công viên, bờ hồ... Trang trí phòng bạn bằng những bức ảnh, ánh

sáng... mà bạn thích.

E = Effective thinking (Nghĩ hiệu quả). Nghĩ hiệu quả tức là hướng suy nghĩ của bạn đến

những mục đích cụ thể. Không có mục đích thì bạn sẽ làm rối hết mọi việc lên.

D = Determination (Quyết tâm). Sự sáng tạo đòi hỏi có luyện tập. Bạn nên tạo thói quen

tưởng tượng. Những ý tưởng ban đầu của bạn có vẻ hết sức buồn cười và không ai chấp

nhận, nhưng đừng bỏ cuộc.

I = Ink (viết). Khi bạn nhìn vào những thứ bạn viết ra, bạn sẽ có nhiều ý tưởng hơn là chỉ

nghĩ đến nó.

b. TILS:

T = Think it: Suy nghĩ.

I = Ink it: Viết ra.

L = Link it: Nối, liên tưởng.

S = Sync it: Ðồng nhất.

6. Luyện tập

Có những bài tập suy nghĩ sáng tạo mà bạn có thể thử:

- Nếu bạn cần giao tiếp nhưng bạn không thể sử dụng từ ngữ, dù viết hay nói, thì bạn làm

cách nào? Một người đã đưa ra những ý sau: ngôn ngữ cử chỉ, dùng trống, dùng đồ vật,

dùng đèn nhấp nháy, vẽ...

- Bạn hãy đặt ra những câu hỏi cho những đồ vật thường ngày, ví dụ: "nếu thang máy

không chỉ đi lên và xuống mà còn từ đầu này sang đầu kia thì sẽ thế nào?", "nếu mỗi cơ

quan yêu cầu mỗi ngày mỗi người phải cười ít nhất 30 phút thì sao?"...

- Vấn đề của một công ty bán khoai tây chiên: khoai tây chiên thường rất dễ vỡ vụn khi

đóng gói, vận chuyển..., vậy làm thế nào? Bạn có thể bắt đầu bằng việc nghĩ ra cách đóng

gói và vận chuyển mà không làm khoai tây bị vỡ. Sau đó, suy luận: về bản chất thì cái gì

giống miếng khoai tây chiên, chúng có dễ vỡ không?...

- Một cuốn sổ tay thì bạn có thể sáng tạo theo cách nào? "Sức ỳ tâm lý" rất dễ làm cho đa

số mọi người nghĩ rằng "sổ tay thì còn gì để sáng tạo nữa!". Nó rõ ràng đến phát bực

mình! Nhưng vẫn có những ý tưởng của những người không chịu thua: Sổ tay đổi màu;

Sổ biết đọc những thứ mình viết lên; Sổ sửa lỗi chính tả; Sổ hình tròn; Sổ có thể dán giấy

lên mà không cần hồ dán; Sổ có thể dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh...

7. Kết

Có một người cha giàu có với 3 người con trai. Ông muốn trao lại tài sản cho người con

thông minh nhất. Thế là ông nghĩ ra một cách: đưa cho mỗi người một khoản tiền nhỏ và

bảo những người con hãy mua thứ gì có thể làm đầy được nhà kho, càng đầy càng tốt.

Ba người con cầm tiền và đi tìm thứ vừa rẻ vừa dễ làm đầy nhà kho. Người con cả nhìn

thấy một cái cây rất to trên đường, và nghĩ rằng cành và lá cây rất cồng kềnh, sẽ tỏa ra

được mọi ngóc ngách của phòng. Thế là anh ta mua hết cành cây và thuê người đem về

nhà.

Người con thứ hai thì mừng húm khi nhìn thấy đống cỏ khô. Cỏ vừa rẻ vừa nhẹ, lại nhỏ,

dễ dàng làm đầy nhà kho. Thế là anh ta mua hết cỏ và thuê người đem về nhà.

Người con út nghĩ đi nghĩ lại về cách làm đầy nhà kho sao cho vừa hiệu quả, vừa không

tốn kém. Cuối cùng, anh ta chỉ mua một ngọn nến. Khi thắp ngọn nến lên, cả nhà kho đầy

tràn ánh sáng. Người cha rất hài lòng và để lại tài sản cho người con út.

Hàm ý của câu chuyện này là gì? Ðể thắp sáng được ngọn nến sáng tạo bên trong mỗi

người, trước hết, đầu óc chúng ta phải đầy đã.

Minh Dung

Báo Hoa Học Trò

traitimvietnam.net

Bài 2:

Theo Bộ Lao động Mỹ, người lao động ở thế kỷ 21 cần có 13 kỹ năng, mà theo họ, kỹ

năng tư duy sáng tạo là quan trọng nhất. Vậy sáng tạo và tư duy sáng tạo đang được hiểu

như thế nào?

Sự chiến thắng của "kỹ năng số 1"

Có một chuyện vui thế này: Trong một chuyến đi dự hội nghị tin học, 3 kỹ sư của hãng

Apple và 3 kỹ sư của hãng Microsoft gặp nhau tại ga tàu. Các kỹ sư của Microsoft rất

ngạc nhiên khi các kỹ sư của Apple chỉ mua 1 vé duy nhất, làm sao họ có thể qua mắt

được đội kiểm soát vé gắt gao của tàu?

Khi người soát vé bước vào toa tàu, ba kỹ sư của Apple đồng loạt đứng lên đi vào toalet.

Hành động của họ không thoát khỏi 3 cặp mắt tò mò của các kỹ sư Microsoft. Sau khi

kiểm tra xong trong toa, người soát vé tiến về phía toalét và gõ cửa: "Cho kiểm tra vé!".

Một giọng nói ở trong vọng ra: "Thưa đây!" Và một chiếc vé được luồn qua khe cửa.

Người soát vé kiểm tra xong và bỏ đi. Các kỹ sư Microsoft ồ lên ngạc nhiên trước "công

nghệ" của Apple.

Và khi hội nghị kết thúc, 6 kỹ sư lại gặp nhau ở nhà ga. Như lần trước, các kỹ sư Apple

chỉ mua 1 vé, trong khi các kỹ sư Microsoft lại chẳng mua vé nào. Đến lượt các kỹ sư

Apple ngạc nhiên không hiểu làm sao ba người kia có thể thoát được. Tương tự, 3 kỹ sư

Apple lại chui vào toalét đóng cửa lại. Ngay lập tức, 1 trong 3 kỹ sư Microsoft bước theo

và giả giọng người soát vé, rút luôn chiếc vé vừa thò qua khe cửa và cả 3 bọn họ chui tọt

vào toalét bên cạnh. Thật tuyệt vời vì trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người thành công luôn

là người biết tiếp thu những ý tưởng của người khác và áp dụng một cách thật sáng tạo.

Thực chất thì sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất,

tinh thần mới về chất. Nói cho dễ hiểu thì sáng tạo là hoạt động của con người tạo ra sản

phẩm và sản phẩm này phải đáp ứng được hai yêu cầu sau:

- Có tính mới (mới về chất)

- Có giá trị so với sản phẩm cũ (có lợi hơn, tiến bộ hơn)

Vì sáng tạo có thể là sản phẩm vật chất (như bóng đèn điện, bóng bán dẫn, tivi...) hay sản

phẩm tinh thần (như tác phẩm hội họa, văn học...) nên có thể nói sáng tạo có mặt trong

mọi họat động của con người. Trước hết, chúng ta hãy gạt bỏ tư tưởng cho rằng sáng tạo

chỉ có trong khoa học, kỹ thuật hay nghệ thuật. Người ta vẫn nghĩ sáng tạo phải thể hiện

trong việc phát minh ra điện, ra vaccine phòng bệnh, hoặc viết một cuốn tiểu thuyết... Tất

nhiên, những việc kể trên đúng là sáng tạo, mỗi bước tiến để chinh phục vũ trụ của loài

người đều là kết quả của sự sáng tạo. Nhưng sáng tạo không chỉ tồn tại trong một số nghề

nhất định hay trong bộ óc của những người thông minh tuyệt đỉnh.

Vậy thì sáng tạo là gì?

Một bạn sinh viên học giỏi, mà nghèo đã đặt quyết tâm đi du học và thành công vì tìm

được nguồn học bổng phù hợp. Bạn đó đã sáng tạo trong phương pháp học.

Một SV biết sắp xếp thời gian để có thể vừa học tốt ở trường lại vẫn có thời gian đi làm

để có tiền ăn học và còn giúp đỡ thêm cho gia đình. Bạn đó đã rất sáng tạo.

Một nhân viên phải làm công việc tiếp thị sản phẩm trên đường phố. Anh ta đã có gắng

tránh sự nhàm chán bằng cách mỗi ngày thay đổi một lộ trình, sau 1 tuần mới đi lặp lại.

Anh ta đã biết sáng tạo trong công việc.

Sáng tạo đơn giản chỉ là tìm ra một cách mới để làm việc hoặc làm cho công việc đó trôi

chảy hơn, làm nên thành công. Trong câu chuyện vui về 6 chàng kỹ sư trên, chúng ta đều

nhận ra rằng các kỹ sư Apple đã có một giải pháp sáng tạo để trốn vé tàu, trong khi các

kỹ sư Microsoft lại có môt giải pháp sáng tạo nữ trên nền giải pháp cũ của Apple. Sáng

tạo vì thế cứ nối sáng tạo như một cuộc đua tiếp sức để đời sống loài người ngày một văn

minh, tiện lợi hơn. Khi đã hiểu sáng tạo là gì và sáng tạo có tầm quan trọng như thế nào

thì rõ rằng, tư duy sáng tạo luôn là phẩm chất số 1 của người lao động trong bất cứ xã hội

nào.

13 kỹ năng cần có của người lao động trong thế kỷ 21 (theo Ủy ban Đào tạo và phát

triển Mỹ)

1. Tư duy sáng tạo

2. Đặt mục tiêu, tạo động cơ

3. Quan hệ (giao tiếp, ứng xử)

4. Lãnh đạo

5. Học hỏi

6. Lắng nghe

7. Thương lượng

8. Thuyết trình và diễn giải ý tưởng

9. Đảm bảo tính hiệu quả

10. Phát triển cá nhân trong công việc

11. Giải quyết nhanh vấn đề, tìm giải pháp

12. Lòng tự tôn về bản thân

13. Làm việc theo nhóm

Các Phương Pháp Suy Luận và Sáng Tạo

Võ Bài I: Tập Kích Não

Các bạn thân mến,

Ngày nay, trong các xứ tiên tiến thì các phương pháp để giải quyết mau lẹ và hiệu quả

các khó khăn về tư duy được nghiên cứu và giảng dạy khá kỹ trong nhiều "course" ở các

truờng. Tuy nhiên, khi "trở về xứ Việt" thì chúng ta hầu như không thể tìm thấy một

hướng dẫn nào khả dĩ giúp trang bi cho chúng ta một số phương tiện để có thể "qua cầu"

(mà không bị gió bay).

Chúng tôi đã cố găng sưu tầm, dịch thuật và trình bày lại với các bạn một số phương

pháp quan trọng. Hy vọng các phương pháp này sẽ cung cấp thêm những "ánh sáng

cuối đường hầm" có thể giúp các bạn giải quyết được các vấn đề khó khăn gặp phải

trong môi trường nghiên cứu cũng như trong học vấn. Trong lúc đọc các bạn không nhất

thiết phải "bám" theo một phương cách nào hết mà chỉ cần rút tỉa ra xem phương pháp

nào có duyên với bạn để có thể xử dụng thích hợp nhằm giải quyết vấn đề các bài toán

của mình và do đó, bạn cũng không nhất thiết phải nghiền ngẫm hết tất cả các phương

pháp được trình làng ở đây. (Trừ khi bạn thấy có hứng thú muốn tìm hiểu cặn kẽ). Tuy

nhiên, các phương pháp này cũng có thể sử dụng kết hợp với nhau để giúp ta tìm đến

những lời giải đẹp.

Đầu tiên xin đề cập đến các phương pháp tận dụng được khả năng tổ chức và làm việc

của cá nhân hay một nhóm các nhà chuyên môn (có thể không cùng một lãnh vực và có

tầm nhìn khác nhau trong cách tiếp cận vấn đề). Vì các phương pháp này còn nhiều mới

lạ so với những phương pháp đã được dạy trong trường nên các bạn hãy cố gắng đọc,

hiểu và làm quen với cách xử dụng chúng. Chắc chắn các phương pháp này sẽ đem lại

nhiều ích lợi cho việc suy nghĩ và giải quyết khó khăn cho các bạn.

1. Brainstorming: (Tập kích não): Đây là một phương pháp suất sắc dùng để phát triển

nhiều giải đáp sáng tạo cho một vấn đề. Phương pháp này hoạt động bằng cách tập trung

trên vấn đề, và rút ra rất nhiều đáp án căn bản cho nó. Các ý niệm/hình ảnh về vấn đề

trước hết được nêu ra một cách rất phóng khoáng và ngẫu nhiên theo dòng suy nghĩ càng

nhiều càng đủ càng tốt. Chúng có thể rất rộng và sâu cũng như không giới hạn bởi các

khiá cạnh nhỏ nhặt nhất cuả vấn đề. Trong "tập kích não" thì vấn đề được đào bới từ

nhiều khía cạnh va nhiều cách (nhìn) khác nhau. Sau cùng các ý kiến sẽ được phân nhóm

và đánh giá.

Phương pháp này có thể tiến hành bởi từ 1 đến nhiều người. số lượng người tham gia

nhiều sẽ giúp cho phương pháp tìm ra lời giải được nhanh hơn hay toàn diện hơn nhờ vao

nhiều góc nhìn khác nhau bởi các trình độ, trình tự khác nhau cuả mỗi người.

Lịch sử phát triển: Chữ tập kích não (brainstorming) được đề cập đầu tiên bởi Alex

Osborn năm 1941. Ông đã mô tả tập kích não như là "Một kĩ thuật hội ý bao gồm một

nhóm người nhằm tìm ra lời giải cho vấn đề đặc trưng bằng cách góp nhặt tất cả ý kiến

cuả nhóm người đó nảy sinh trong cùng một thời gian theo một nguyên tắc nhất định (mà

sẽ được mô tả trong phần tiếp theo). Ngày nay, phương pháp này không nhất thiết phải

cần có nhiều người mà một người cũng có thể tiến hành (Một mai một cuốc một cần câu

-- Thơ cuả cụ Tam Nguyên )

Các đặc điểm chính khi sử dụng tập kích não:

a) Định nghiã vấn đề một cách thật rõ ràng phải đưa ra được các chuẩn mực cần đạt được

cuả 1 lời giải. Trong bước này thì vấn đề sẽ được cô lập hoá với môi trường và các

nhiễu loạn.

b) Tập trung vào vấn đề. Tránh các ý kiến hay các điều kiện bên ngoài có thể làm lạc

hướng buổi làm việc. Trong giai đoạn này người ta thu thập tất cả các ý niệm, ý kiến và

ngay cả các từ chuyên môn có liên quan trực tiếp đến vấn đề cần giải quyết. (thường có

thể viết lên giấy hoặc bảng tất cả)

c) Không được phép đưa bất kì một bình luận hay phê phán gì về các ý kiến hay ý niệm

trong lúc thu thập. Những ý tưởng thoáng qua trong đầu nếu bị các thành kiến hay phê

bình sẽ dể bị gạt bỏ và như thế sẽ làm mất sự tổng quan cuả buổi tập kích não

d) Khuyến khích tinh thần tích cực. Mỗi thành viên đều cố gắng dóng góp và phát triển

các ý kiến

e) Hãy dưa ra càng nhiều ý càng tốt về mọi mặt cuả vấn đề kể cả những ý kiến không

thực tiễn hay ý kiến hoàn toàn lạ lẫm sáng tạo.

Các bước tiến hành:

a) Trong nhóm lựa ra 1 người đầu nhóm (để điều khiển) và 1 người thư kí (để ghi lại tất

cả ý kiến) (cả hai công việc có thể do cùng 1 người tiến hành)

b) Xác định vấ đề hay ý kiến sẽ được tập kích. Phải làm cho mọi thành viên hiểu thấu

đáo về đề tài sẽ được tìm hiểu.

c) Thiết lập các "luật chơi" cho buổi tập kích não. Chúng nên bao gồm

• Người đầu nhóm có quyền điều khiển buổi làm việc.

• không một thành viên nào có quyền đòi hỏi hay cản trở, đánh giá hay phê bình

hay "xiá mũi" vào ý kiến hay giải đáp cuả thành viên khác

• Xác minh rằng không có câu trả lời nào là sai!

• Thu thập lại tất cả câu trả lời ngoại trừ nó đã được lập lại.

• Vạch định thời gian cho buổi làm việc và ngưng khi hết giờ.

d) Bắt đầu tập kích não: Người lãnh đạo chỉ định hay lựa chọn thành viện chia sẻ ý kiến

trả lời (hay những ý niệm rời rạc). Người thư kí phải viết xuống tất cả các câu trả lời, nếu

có thể công khai hóa cho mọi người thấy (viết lên bảng chẳng hạn). Không cho phép bất

kì một ý kiến đánh giá hay bình luận nào về bất kì câu trả lời nào cho đến khi chấm dứt

buổi tập kích

e) Sau khi kết thúc tập kích, hãy lượt lại tất cả và bắt đầu đánh giá các câu trả lời. Một số

lưu ý về chất lượng câu trả lời bao gồm:

• Kiếm những câu ý trùng lặp hay tương tự

• Nhóm các câu trả lời có sư tương tự hay tương đồng về nguyên tắc hay nguyên lí

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!