Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hệ thống thể loại truyền thống trong thơ mới 1932-1945
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Ngµnh: tµi chÝnh kÕ to¸n
®Ò tµi:
Tæng liªn ®oµn lao ®éng viÖt nam
Tr-êng ®¹i häc c«ng ®oµn
Hµ Néi, th¸ng 5/ 2007
®¹I häc
c«ng ®oµn
ViÖn hµn l©m khoa häc x· héi viÖt nam
häc viÖn khoa häc x· héi
BiÖn thÞ quúnh nga
hÖ thèng thÓ lo¹i truyÒn thèng
trong th¬ míi 1932 - 1945
CHUY£N NGµNH: V¡N HäC VIÖT NAM
M· Sè: 62.22.34.01
LuËn ¸n tiÕn sÜ v¨n häc
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc:
1. PGS.TS. Phan Träng Th-ëng
2. PGS.TS. L-u Kh¸nh th¬
hµ néi - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả luận án:
Biện Thị Quỳnh Nga
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1
2. Đối tƣợ ...........................................................................2
ệm vụ nghiên cứu ..........................................................................2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.........................................................................................3
5. Đóng góp mới của luận án ......................................................................................3
6. Cấu trúc ................................................................................................3
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.............................................5
1.1. Thơ mới 1932 - 1945 từ phƣơng diện thể thơ trên lịch trình nghiên cứu suốt hơn
tám thập kỷ qua ...........................................................................................................5
1.2. Vấn đề nghiên cứu các thể thơ truyền thống trong Thơ mới 1932 - 1945 ...........8
CHƢƠNG 2: VỊ THẾ VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC THỂ THƠ TRUYỀN THỐNG
TRONG THƠ MỚI 1932 - 1945 ...............................................................................15
2.1. Nhìn chung về loại hình Thơ mới 1932 - 1945 ..................................................15
2.1.1. Hiện tượng Thơ mới 1932 - 1945 trong lịch sử thơ ca dân tộc ......................15
2.1.2. Loại hình Thơ mới 1932 - 1945, nhìn từ góc độ thể thơ .................................24
2.2. Vị thế của các thể truyền thống trong “bảng” thể thơ của Thơ mới...................35
2.2.1. Một vài giới thuyết về thể thơ truyền thống trong Thơ mới ............................35
2.2.2. Tỉ lệ, dung lượ ạng thức tồn tại của các thể truyền thống
trong Thơ mới 1932 - 1945 .......................................................................................37
2.2.3. Khả năng lôi cuốn độc giả của các thể thơ truyền thống trong sự “cạnh
tranh” với các thể khác của Thơ mới 1932 - 1945 ...................................................41
2.3. Vai trò của các thể thơ truyền thống đối với Thơ mới 1932 - 1945...................43
CHƢƠNG 3: CHỨC NĂNG VÀ NỘI DUNG CÁC THỂ THƠ TRUYỀN THỐNG
TRONG THƠ MỚI 1932 – 1945...............................................................................45
3.1. Khái luận về chức năng và nội dung của các thể thơ.........................................45
3.2. Các thể truyền thống trong lịch sử thơ ca dân tộc trƣớc Thơ mới......................46
3.2.1. Các thể truyền thống thuộc hệ thống thể thơ du nhập ....................................46
3.2.2. Các thể truyền thống thuộc hệ thống thể thơ thuần Việt.................................51
3.3. Đặc trƣng chức năng và nội dung các thể truyền thống trong Thơ mới.............58
3.3.1. Các thể truyền thống thuộc hệ thống thể thơ du nhập ....................................58
3.3.2. Các thể truyền thống thuộc hệ thống thể thơ thuần Việt.................................78
3.3.3. Những thành công và bất cập về chức năng và nội dung của các thể truyền
thống trong Thơ mới 1932 - 1945 (thay cho tiểu kết)...............................................97
CHƢƠNG 4: THI PHÁP CÁC THỂ THƠ TRUYỀN THỐNG TRONG THƠ MỚI
1932 – 1945.............................................................................................................101
4.1. Thi pháp và thi pháp các thể thơ ......................................................................101
4.2. Thi pháp các thể truyền thống trong lịch sử thơ ca dân tộc trƣớc Thơ mới .....103
4.2.1. Các thể truyền thống thuộc hệ thống thể thơ du nhập ..................................103
4.2.2. Các thể truyền thống thuộc hệ thống thể thơ thuần Việt...............................106
4.3. Thi pháp các thể truyền thống trong Thơ mới..................................................111
4.3.1. Các thể truyền thống trước những thử thách của thời đại Thơ mới .............111
4.3.2. Thi pháp các thể truyền thống du nhập trong Thơ mới.................................111
4.3.3. Thi pháp các thể truyền thống thuần Việt trong Thơ mới.............................125
4.3.4. Những thành công và bất cập về thi pháp của các thể truyền thống
trong Thơ mới 1932 - 1945 (thay cho tiểu kết)......................................................143
KẾT LUẬN .............................................................................................................147
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LB : Lục bát
STLB : Song thất lục bát
HN : Hát nói
ĐL : Đƣờng luật
CP : Cổ phong
Nxb : Nhà xuất bản
Tr : Trang
TP : Thành phố
[ ] : Cách chú thích tài liệu trích dẫn: số thứ tự tài liệu tham khảo đứng
trƣớc, số trang đứng sau. Ví dụ: [83, 53] nghĩa là số thứ tự của tài liệu trong mục
Tài liệu tham khảo là 83, nhận định trích dẫn nằm ở trang 53 của tài liệu này.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ mới 1932 - 1945 là cuộc cách tân (có ngƣời gọi là cuộc “cách
mạng”) thắng lợi lớn về thơ, đánh dấu một bƣớc ngoặt lớn trong lịch sử thơ ca và
văn học dân tộc. Những đóng góp của nó cho quá trình hiện đại hoá thơ ca nói riêng
và văn học dân tộc nói chung là khó có thể thay thế. Thơ mới –
) đã đƣợc nghiên cứu nhiều. Tuy nhiên,
ủa Thơ mới ạn kiệt.
, khám p . Xung quanh vấn đề đánh giá
thành tựu của Thơ mới (xét về mặt thể loại) cũng nhƣ của cả phong trào thơ (xét về
mặt “khuynh khƣớng”, “tổ chức”) vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến không thống nhất…
Thơ mới ẫ ần phải đƣợc tiếp
tục nghiên cứ ện loại hình - thể loại.
1.2. Việc nhận chân giá trị cũng nhƣ bản chất của Thơ mới có thể đƣợc tiến
hành khảo sát, xác định trên nhiều phƣơng diện và bằng nhiều con đƣờng khác
nhau. Chúng tôi chọn hƣớng tiếp cận Thơ mới từ phƣơng diện thể loại, đặc biệt ở
đây là những thể thơ truyền thống (bao hàm cả các thể thơ du nhập và các thể thơ
thuần Việt), vì nhận thấy đây vừa là chỗ đem lại vinh quang cho thơ Việt suốt cả
một quá trình dài hàng nghìn năm, vừa là chỗ dễ gây ngộ nhận cho không ít độc giả
(tƣởng rằng Thơ mới là một sự phủ định truyền thống), từ đây cung cấp một cái nhìn
sâu hơn, khoa học và thoả đáng hơn về đặc trƣng loại hình của Thơ mới. Mặt khác,
tìm hiểu, nghiên cứu văn học theo xu hƣớng loại hình, thể loại đang là hƣớng
nghiên cứu có nhiều triển vọng và ý nghĩa.
1.3. Trên hành trình phát triển và hiện đại hóa thơ ca dân tộc, sự hiện diện
của các thể thơ truyền thống trong một cuộc cách tân vĩ đại về thơ ca (qua hiện
tƣợng Thơ mới) thực sự có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng. Chức năng, nội
dung và thi pháp của những thể thơ này trong Thơ mới có gì biến đổi không? Nó tồn
tại nhƣ thế nào trong thế cạnh tranh với các thể thơ hiện đại - “mới”? Đây đang là
những câu hỏi mà cho đến nay vẫn chƣa có những lời giải thoả đáng. Từ đây, có thể
tìm thấy nhiều bài học quý báu cho quá trình đổi mới thơ Việt.
1.4. Thơ mới nói chung, các thể thơ truyền thống trong Thơ mới nói riêng giữ
vị trí quan trọng trong chƣơng trình dạy - học ngữ văn ở các nhà trƣờng phổ thông
2
và bậc đại học. Thực hiện đề tài này, luận án còn nhằm phục vụ cho việc tham khảo
và vận dụng vào dạy - học ngữ văn ở nhà trƣờng (nhất là ở các trƣờng đại học).
2. Đối tượ
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các thể thơ truyền thố ả hai hệ thống thể thơ du nhập
và thuần Việt) trong Thơ mới 1932 - 1945.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung khảo sát, tìm hiểu các thể thơ truyền thống trong Thơ
mới 1932 - 1945 (các thể – ền thố
luận án vẫn quan tâm nhƣng chỉ dùng làm cơ sở để đối sánh).
Văn bản khảo sát chính là tuyển tập Thơ mới 1932 - 1945, tác giả và tác
phẩm [128]. Ngoài ra, còn một số tài liệu khác đƣợc chúng tôi dùng khảo sát thêm,
so sánh và đối chiếu, gồm: Thi nhân Việt Nam [175], Việt Nam thi nhân tiền chiến
[95] và 15 tuyển thơ của các tác giả tiêu biểu cho phong trào Thơ mới của Nxb Hội
Nhà văn, 1995 [129].
ệm vụ nghiên cứu
3.1. ứu
–
ặ (chức năng, nộ
ị thế
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Xác định vị thế và vai trò của các thể thơ truyền thống trong hệ thống
thể thơ của Thơ mới 1932 - 1945.
3.2.2. Khảo sát, phân tích, luận giải, xác định đặc trƣng chức năng và nội
dung của các thể thơ truyền thống trong Thơ mới 1932 - 1945.
3.2.3. Khảo sát, phân tích, xác định đặc trƣng thi pháp của các thể thơ truyền
thống trong Thơ mới 1932 - 1945.
Cuối cùng rút ra một số kết luận về hệ thống các thể thơ truyền thống trong
Thơ mới 1932 - 1945.
3
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụ – ều phƣơng pháp nghiên cứ
–
ận diện đặ
cũng
ch là chìa khoá nhằm giải mã “ ” và đặc trƣng
các thể thơ trên ba phƣơng diện cơ bả : chức năng, nội dung và thi pháp.
Các phƣơng pháp khác đƣợc vận dụng trong luận án đều giữ vai trò riêng:
–
; phương –
;
;
–
,...
, ều
, v.v...).
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu đặc trƣng chức năng, nội
dung và thi pháp của các thể thơ truyền thống trong Thơ mới 1932 - 1945 với một
cái nhìn hệ thống; từ đây xác định vị thế, vai trò, vận mệnh và sức sống của các thể
thơ này trong thơ Việt Nam hiện đại.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định con đƣờng đi đến hiện
đại của thơ ca dân tộc rõ ràng không phải là con đƣờng tách rời, cắt mạch với truyền
thống. Sức mạnh của các yếu tố mang giá trị của truyền thống vẫn có thể tạo nên
thành tựu mới nếu biết phát huy và làm mới nó.
Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, giúp cho việc dạy -
học văn học trong nhà trƣờng và tiếp nhận Thơ mới, thơ hiện đại đƣợc tốt hơn.
6. Cấu trúc
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
đƣợc triển khai trong bốn chƣơng:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
4
Chương2: Vị thế và vai trò của các thể thơ truyền thống trong Thơ mới 1932 - 1945
Chương 3: Chức năng và nội dung của các thể thơ truyền thống trong Thơ mới
1932 - 1945
Chương 4: Thi pháp các thể thơ truyền thống trong Thơ mới 1932 - 1945.
5
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Thơ mới 1932 - 1945 từ phương diện thể thơ trên lịch trình nghiên
cứu suốt hơn tám thập kỷ qua
Vấn đề nghiên cứu thể loại nói chung và các thể thơ nói riêng trong phong
trào Thơ mới đã đƣợc đề cập từ rất sớm. Ngay từ khi mới ra đời, Thơ mới trƣớc hết
đƣợc nhìn nhận ở góc độ thể loại, đƣợc hiểu là thơ “tự do” (theo nghĩa là mộ
thơ” hay “thể thơ”) nhằm phân biệt, đối lập với những bài thơ làm theo hình thức
thơ luật Đƣờng một cách gò bó, khuôn sáo, xuất hiện không ít trên báo chí công
khai thời bấy giờ. Phan Khôi trong bài Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ
(1932) xác định đó là lối thơ “đem ý thật có trong tâm khảm tả ra bằng những câu
có vần mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết” [85, 53]. Đƣợc Phan
Khôi khơi mào, các tác phẩm Thơ mới liên tục đƣợc in ra, các báo ở hai miền đã cho
đăng các bài “bút chiến” tranh luận Thơ cũ - Thơ mới, phê bình Thơ mới. Các bài
viết tham gia tranh luận đã đƣợc tập hợp khá đầy đủ trong cuốn Tranh luận văn
nghệ thế kỷ XX [131]. Nhìn chung, cái đích lớn nhất mà cuộc tranh luận hƣớng đến
là nhằm đi tìm và xác lập diện mạo lối “thơ mới”. Lúc đầu, Thơ mới đƣợc xác định
bằng cách đối sánh với các thể thơ cũ để tìm ra khuôn vần, nhạc điệu và hình thức
của các thể thơ mới. Khi Thơ mới đang trên hành trình vận động của nó (vài năm
đầu của thập niên 40 - thế kỷ XX), ngoài các ý kiến ngắn về Thơ mới tiếp tục xuất
hiệ ổi bật là Việt Nam văn học sử yếu (1941) của
Dƣơng Quảng Hàm [59] và Thi nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh - Hoài Chân
[175]. Dƣơng Quảng Hàm bƣớc đầu khảo cứu âm luật và thể cách của Thơ mới. Đặc
biệt, Hoài Thanh - Hoài Chân với Thi nhân Việt Nam, nhất là bài viết Một thời đại
trong thi ca, đã tỏ ra rất nhạy cảm, xác đáng trong tinh tuyển, tổng duyệt, tổng luận
thế nào là Thơ mới, trong đó có vấn đề các thể thơ. Vấn đề các thể thơ của Thơ mới,
tuy chƣa đƣợc Hoài Thanh - Hoài Chân đi sâu khảo sát (hai ông tập trung nhiều hơn
về cái tôi của Thơ mới), nhƣng những ý kiến của các ông rất có ý nghĩa.
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thơ mới cũng nhƣ việc nghiên cứu
Thơ mới trải nhiều thăng trầm. Ở miền Bắc, do thực tiễn, nhiệm vụ cách mạng đặt ra
cho văn nghệ nói chung và cái nhìn về văn học lãng mạn chƣa đƣợc “cởi trói”, việc
nghiên cứu Thơ mới còn ít, sự đánh giá Thơ mới chƣa thỏa đáng, nhất là về nội dung
6
tƣ tƣởng. Thành tựu nghiên cứu về Thơ mới trong thời gian này, đáng chú ý nhất là
công trình Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại của Bùi Văn Nguyên - Hà Minh
Đức [124]. Trong công trình này, ở chƣơng V: Các thể thơ ca trong phong trào Thơ
mới, Hà Minh Đức đã thống kê, khảo sát, phân tích khá thuyết phục các thể đƣợc
dùng phổ biến của phong trào Thơ mới, nhất là trên phƣơng diện thi pháp thể thơ.
Ngoài ra, các công trình Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại của Hà Minh
Đức [47], Phong trào Thơ mới của Phan Cự Đệ [33] cũng khẳng định những đóng
góp to lớn về nghệ thuật của Thơ mới, trong đó ít nhiều có đề cập đến các thể thơ.
Trong giai đoạn này, ở miền Nam, Thơ mới đƣợc đánh giá cao, đƣợc đƣa vào
giảng dạy trong nhà trƣờng. Các công trình: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên
(tập III, 1961) của Phạm Thế Ngũ [119], Khảo luận luật thơ của Lam Giang [54],
Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ mới của Bùi Đức Tịnh [165],… có
quan tâm Thơ mới trên phƣơng diện thể thơ. Tuy nhiên, ở các công trình trên, các
thể thơ của Thơ mới mới chỉ đƣợc giới thiệu một cách khái quát, các tác giả chủ yếu
nghiêng về miêu tả những biểu hiện “bề mặt”, chứ chƣa đi sâu tìm hiểu tính đặ
ức năng, nội dung và thi pháp các thể của Thơ mới.
Từ 1975, sau ngày đất nƣớc thống nhất, vấn đề đánh giá Thơ mới vẫn trƣợt
theo quán tính phủ định. Từ 1986 (kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI) đến nay,
trong bối cảnh thời kỳ đổi mới, hội nhập (với thế giới), Thơ mới và nhiều hiện tƣợng
văn học tiền chiến đƣợc nhìn nhận lại, đƣợc quan tâm, đánh giá một cách bình tĩnh,
khách quan và khoa học hơn. Xu hƣớng nghiên cứu văn học theo nhiều phƣơng pháp
mới, trong đó có phƣơng pháp loại hình, ngày càng chứng tỏ tính ƣu việt của nó.
Trong xu thế đó, loại hình Thơ mới 1932 - 1945, nhất là từ góc độ thể thơ cũng đƣợc
quan tâm nhiều và đƣợc đánh giá cao. Phổ biến nhất là các bài viết đăng trên các báo,
tạp chí (từ trung ƣơng đến địa phƣơng), bsite
: Tiếp nhận ảnh hưởng của thơ truyền thống (Xuân Diệu) [31], Cái mới
của Thơ mới từ xung khắc đến hòa giải với truyền thống (Trần Đình Hƣợu) [75],
Cuộc cải cách của phong trào Thơ mới và tiến trình thơ tiếng Việt (Lại Nguyên Ân)
[7], Thơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình tiếng Việt (Trần Đình Sử) [154], Loại
hình câu thơ của Thơ mới (Lê Tiến Dũng) [21], Địa vị lịch sử của phong trào Thơ
mới (Trần Đình Sử) [158], Vấn đề mới cũ trong thơ Việt Nam trước 1945 nhìn từ
phong trào Thơ mới (Lƣu Khánh Thơ) [181], Thơ mới thành công và thất bại của
thành công (Đỗ Lai Thúy) [188], Thể Thơ mới nhìn từ sự vận động nội tại của thể
7
loại văn học (Hoàng Thị Huế) [71], Hình thức Thơ mới với các thể thơ đặc trưng đột
phá từ thơ cổ điển (Nguyễn Huệ Chi) [13],… Gần đây xuất hiện một số bài viết theo
hƣớng nghiên cứu chuyên sâu những thể thơ riêng lẻ của Thơ mới nhƣ: Bằng trắc thơ
bảy chữ Xuân Diệu (Lý Toàn Thắng)[163], Thể tám tiếng trong thơ Việt Nam [24] và
Thơ tự do, khuynh hướng chủ yếu trong thơ Việt Nam đương đại (Lê Tiến Dũng)[23],
Mối quan hệ giữa hát nói và Thơ mới (Nguyễn Đức Mậu)[108],…
Vấn đề các thể thơ của Thơ mới cũng đƣợc đề cập trong các công trình là
chuyên luận, chuyên khảo hoặc giáo trình dùng trong các trƣờng đại học. Tiêu biểu
là các công trình: Ngôn ngữ thơ (Nguyễn Phan Cảnh) [11], Văn học lãng mạn Việt
Nam 1930 - 1945 (Phan Cự Đệ) [34], Thơ mới - bình minh thơ Việt Nam hiện đại
(Nguyễn Quốc Túy) [167], Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca (Bùi Công Hùng)
[72], Con mắt thơ (Đỗ Lai Thúy) [186], Thi pháp hiện đại (Đỗ Đức Hiểu)[66], Tìm
hiểu thơ (Mã Giang Lân)[89], Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (Giáo trình lịch
sử văn học ễn Đăng Mạnh) [106], Cấu trúc thơ (Thụy Khuê) [86], Thơ,
v.v…và v.v... (Nguyễn Hƣng Quốc) [145],… Hầu hết các bài viết và công trình, hoặc
mớ , hoặc mới chỉ nghiên cứu một phƣơng diện nào đó của
các thể thơ, hoặc tìm hiểu các thể thơ chƣa phải vì mụ i mà vì
mục đích khác theo tƣ tƣởng của ngƣời nghiên cứu. Ngoài ra, còn có dạng các công
trình đi vào vấn đề thể thơ thuộc phong cách riêng của các nhà thơ, nhƣ: Thế giới
nghệ thuật thơ Chế Lan Viên của Hồ Thế Hà [55], Ba đỉnh cao Thơ mới Xuân Diệu -
Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử của Chu Văn Sơn [150], Thơ tình Xuân Diệu (Lƣu
Khánh Thơ) [179], Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng tám 1945 của Lý Hoài
Thu [183], ệu, thời kỳ trước 1945 (Lê Quang Hƣng)
[74], Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong của Phan Trọng Thƣởng [190],...
Dƣới dạng là các khóa luận tốt nghiệp đại học, các luận văn thạc sĩ, luận án
tiến sĩ, vấn đề thể thơ của Thơ mới ngày càng đƣợc khai thác nhiều. Nổi bật có: Kết
cấu thơ trữ tình (Phan Huy Dũng) [26], Thơ tình trong Thơ mới (Lê Hồ Quang)
[142], Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (Trần Thị Lệ Thanh) [174], Thơ
mới với thơ Đường (Lê Thị Anh) [5 ận án Tiến sĩ Thơ mới
1932 - 1945 nhìn từ sự vận động thể loại của Hoàng Sĩ Nguyên [121]. Đây là công
trình đầu tiên đi sâu vào các thể thơ của Thơ mới để tìm hiểu tiến trình vận động, sự
tƣơng tác giữa các yếu tố thể thơ một cách khá công phu, hệ thống; từ đây cung cấp
một cái nhìn khách quan về con đƣờng nảy sinh, phát triển và thành tựu của Thơ
8
mới, vị trí của Thơ mới trong văn mạch dân tộc. Song, vấn đề đặc trƣng các thể thơ
không phải là mục đích chính của đề tài nên chƣa đƣợc tác giả luận án chú trọng.
Nhìn chung, Thơ mới và vấn đề thể thơ của Thơ mới đã đƣợc quan tâm,
nghiên cứu nhiều. Tuy nhiên, chƣa có công trình nào tập trung khảo sát hệ thống thể
thơ của Thơ mới một cách đầy đủ, hệ thống. Trên lịch trình nghiên cứu hơn tám
mƣơi năm qua, Thơ mới, nhất là ở phƣơng diện các thể thơ vẫn còn nhiều bỏ ngỏ.
1.2. Vấn đề nghiên cứu các thể thơ truyền thống trong Thơ mới 1932 - 1945
Các thể thơ truyền thống (bao hàm cả các thể thơ du nhập và các thể thơ
thuần Việt) trong Thơ mới, nhất là các thể lục bát (LB), song thất lục bát (STLB),
ảnh hƣởng của thể hát nói (HN) đến thể 8 chữ, và thơ Đƣờng luật (ĐL), trên phƣơng
diện lý thuyết và trong lịch sử văn học dân tộc nói chung, đƣợc nhiều nhà nghiên
cứu rất quan tâm. Trƣớc 1945, Dƣơng Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu
bƣớc đầu khảo sát âm luật cùng thể cách Thơ mới và nhận thấy “phần nhiều là
những bài viết theo lối câu có số chữ nhất định” mà “thƣờng dùng” nhất là lối câu 5
chữ, 7 chữ, 8 chữ [59, 431-432]. Hoài Thanh trong Một thời đại trong thi ca ít nhiều
chú ý nhận diện một số thể thơ dân tộc trong Thơ mới: “Thơ Đƣờng luật vừa động
đến là tan. Thất ngôn và ngũ ngôn rất thịnh. Ca trù biến thành thơ 8 chữ. Lục bát
vẫn đƣợc trân trọng: ảnh hƣởng Truyện Kiều và ca dao. Song thất lục bát cơ hồ chết,
không hiểu vì sao. Thơ 4 chữ trƣớc chỉ thấy trong những bài vè, nay cất lên hàng
những thể thơ nghiêm chỉnh. Lục ngôn thể trƣớc chỉ thấy trong Bạch Vân thi tập
thỉnh thoảng cũng đƣợc dùng. Từ khúc chết dần với thơ tự do…” [175, 42]. Đặc
biệt nhất phải kể đến ý kiến của chính những ngƣời đƣơng thời Thơ mới bàn về Thơ
mới (đƣợc nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn tập hợp thành nhiều bài viết nhƣ Người
đương thời Thơ mới bàn về thơ Xuân Diệu, Người đương thời Thơ mới bàn về thơ
Huy Cận, Người đương thời Thơ mới bàn về thơ Lưu Trọng Lư, v.v… đăng tải rộng
rãi trên http://phongdiêp.net), trong đó vấn đề các thể truyền thống của Thơ mới
cũng đƣợc đề cập rải rác ở một vài khía cạnh. Quách Tấn còn có hẳn một công trình
bàn về Thi pháp thơ Đường [161] và khẳng định nét mới trong các sáng tác ĐL của
chính mình,…
Từ 1945 đến 1986, dù có nhiều ý kiến đánh giá không thống nhất và số
lƣợng công trình nghiên cứu về Thơ mới không nhiều, song Thơ mới, và nhất là vấn
đề thể thơ của Thơ mới vẫn đƣợc các nhà lí luận, nghiên cứu đặc biệt chú ý. Một số
công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, công phu về Thơ mới thời kỳ này có đề
9
cập đến các thể thơ truyền thống. Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản
ước tân biên khi nói đến “sự đổi mới về thể cách” đã nhận xét: “Đa số là các bài 5
chữ, 7 chữ và 8 chữ… Về sau thơ phá thể làm ra ngày càng ít, ngƣời ta tự nhiên đi
vào mấy điệu đều đặn và cố định,… Điệu 5 chữ tƣơng tự thơ ngũ ngôn xƣa, điệu 7
chữ tƣơng tự thơ thất ngôn xƣa và điệu 8 chữ”, “Thơ Đƣờng mặc dầu bị công kích
hết sức cũng không biến hẳn, thơ lục bát về sau đƣợc đƣa lên chỗ danh dự, song thất
lục bát bị sa thải, thơ hát nói biến thành lối thơ 8 chữ, Thế Lữ khai trƣơng rồi trở
thành một sở trƣờng của Xuân Diệu và những nhà viết kịch thơ sau này”, các nhà
thơ mới “chống lại lối đối chọi gò ép, cấu tứ khuôn sáo, những điều lệ tuân hành
một cách máy móc cũng nhƣ cái giới hạn bát cú của thơ Đƣờng. Họ buông theo lối
thả vần dễ dàng của thơ lục bát, nhƣng họ không ƣa lối kết vần ràng rịt máy móc
của song thất… Họ có khuynh hƣớng vần bằng hơn là vần trắc, vần cƣớc hơn là vần
yêu. Họ ƣa những bài năm chữ thả dài để gợi mở một tâm tƣ súc tích ẩn kín và tìm
ra câu thơ 8 chữ để trang trải nỗi xúc động mênh mông tràn ngập tâm hồn” [119,
568-573]. Nói về “thơ cũ”, “thơ mới”, Lam Giang có ý kiến: “Hình thức Thơ mới
vẫn hiển nhiên khác hẳn với lối thơ thất ngôn bát cú. Một số luật Đƣờng về ngũ
tuyệt, thất tuyệt vẫn đƣợc các nhà thơ mới ƣa dùng và trong khi ấy câu thơ 8 tiếng
của trƣờng Thơ mới cũng tiến dần đến một hình thức có khuôn phép ổn định” [54,
66-67]. Đến 1971, vấn đề nghiên cứu các thể thơ trong Thơ mới đạt một bƣớc tiến
mới, đƣợc đánh dấu bởi sự ra đời của công trình Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể
loại (Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức). Bên cạnh việc khảo sát, phân tích khá thuyết
phục một số đặc trƣng thi pháp của các thể thơ truyền thống (nhƣ vần, nhịp, thanh
điệu, ngôn ngữ), Hà Minh Đức đã có những ý kiến sâu sắc về chức năng, nội dung
các thể thơ này trong thời đại mới. Ông nhận diện khuynh hƣớng của thể LB (“Thể
thơ lục bát trong thời kỳ thơ mới đƣợc khai thác theo hai khuynh hƣớng: khuynh
hƣớng “hiện đại hóa” và khuynh hƣớng trở về với ca dao” [124, 383]), khẳng định
khả năng trữ tình ở thể 5 từ (“Thể thơ 5 từ của phong trào Thơ mới không cô đúc
một cách gò bó nhƣ ngũ ngôn Đƣờng luật, mạch thơ mở rộng hơn, tứ thơ bay bổng
và tình ý thiết tha hơn” [124, 372]) và xác nhận mối quan hệ cội nguồn giữa thể 8
chữ và HN cùng những cách tân của các nhà thơ mới (“Các nhà thơ mới đã sáng tạo
đƣợc thể thơ 8 từ trên cơ sở khai thác và kế thừa hình thức hát nói của thơ ca dân
tộc. Thể 8 từ với nhịp điệu uyển chuyển, với sự không hạn định của số câu và với
cách hiệp vần rộng rãi đã trở nên một thể thơ có khả năng biểu hiện khá sinh động”
10
[124, 119]). Ở công trình Phong trào Thơ mới, Phan Cự Đệ giành hẳn một chƣơng
(chƣơng VI) để bàn về “nghệ thuật của phong trào Thơ mới lãng mạn”. Sau khi tổng
thuật công cuộc định giá các thể của Thơ mới, tác giả kết luận: “Thơ mới thực chất
ra không phải là lối thơ tự do. Lúc đầu nó phá ra một cách phóng túng, nhƣng dần
dần nó trở nên nhuần nhị và dừng lại ở một số thể thơ quen thuộc. Số chữ trong câu
có thể từ 2 chữ (Sương rơi) đến hơn 10 chữ nhƣng dùng nhiều nhất là lối thơ 5 chữ,
7 chữ, 8 chữ. Số câu trong bài không nhất định, thƣờng thƣờng mỗi bài chia làm
nhiều khổ, mỗi khổ 4 câu” [33, 168-169]. Công trình Thơ và mấy vấn đề trong thơ
Việt Nam hiện đại của Hà Minh Đức [47] cũng điểm qua một vài thể thơ truyền
thống của Thơ mới, nhƣng mới chỉ dừng lại ở những ví dụ nhỏ, tản mạn.
Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, vấn đề các thể thơ truyền thống
trong Thơ mới thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu. Trong đó, ĐL, LB,
8 chữ (vốn thoát thai từ HN) là những thể đƣợc ƣu tiên nghiên cứu hàng đầu trong
hệ thống thể thơ truyền thống của Thơ mới. Các bài viết riêng về các thể thơ đăng
trên các báo, tạp chí, website nở rộ: Những đóng góp mới trong việc nghiên cứu thể
loại thơ lục bát [82] và Về việc vận dụng thi pháp ca dao trong thơ trữ tình hiện nay
của Nguyễn Xuân Kính [83], Một số cách tân trong thể thơ lục bát hiện đại của Hà
Quảng [144], Bằng trắc thơ bảy chữ Xuân Diệu của Lý Toàn Thắng [170], Tìm hiểu
quá trình hình thành và phát triển của thể thơ song thất lục bát của Ngô Văn Đức
[50], Thơ lục bát Việt Nam, lạm bàn và Lục bát, một thể thơ anh minh của Nguyễn
Trọng Tạo [159], Thơ Đường luật Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX: một số lượng đáng
kinh ngạc [171], Quách Tấn với thơ Đường luật [172] và Âm vang của luật Đường
trong phong trào Thơ mới [173] đều của Trần Thị Lệ Thanh, v.v…
Các chuyên luận, chuyên khảo hoặc giáo trình dùng trong các trƣờng đại học,
đặc biệt là các tuyển tập, công trình, luận án nghiên cứu về các thể thơ truyền thống
của Thơ mới xuất hiện ngày càng nhiều. Trong Thơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ
trữ tình Việt Nam, Trần Đình Sử chú ý đến việc cách tân loại hình câu thơ của Thơ
mới: “Thơ mới đã mang một nhãn quan mới về ngôn ngữ thơ… Thơ mới đã căn bản
cải tạo lại thơ trữ tình tiếng Việt từ câu thơ điệu ngâm sang câu thơ điệu nói” [154,
108]. Nguyễn Bá Thành với Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại khẳng định
công lao “phát triển, hoàn chỉnh và cải tiến các thể thơ dân tộc” của phong trào Thơ
mới: “Chính cuộc đấu tranh chống cái cũ ấy đã đạt đến thành tựu bất ngờ là hoàn
chỉnh thơ lãng mạn, đẩy các thể thơ dân tộc đến một đỉnh cao “cổ điển” khác. Họ đã