Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hát Quan lang của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng tiếp cận dưới góc độ Văn hóa dân gian
PREMIUM
Số trang
186
Kích thước
1.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1133

Hát Quan lang của người Tày ở Thạch An - Cao Bằng tiếp cận dưới góc độ Văn hóa dân gian

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 0

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÁI NGUYÊN

ĐÀM THÙY LINH

HÁT QUAN LANG CỦA NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN -

CAO BẰNG TIẾP CẬN DƢỚI GÓC ĐỘ VĂN HỌC DÂN

GIAN

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN HẰNG PHƢƠNG

THÁI NGUYÊN – 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ nhiệt tâm của

các thầy cô giáo, đồng nghiệp, ngƣời thân.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Hằng Phương,

ngƣời thầy đã nhiệt tình, tận tâm hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn

này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa sau

đại học và các thầy cô giáo khoa Ngữ văn của trƣờng ĐHSP Thái Nguyên,

các thầy cô giáo trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, trƣờng Đại học KHXH &

NV, Viện Văn học Khoa Sau Đại Học đã giúp em hoàn thành khoá học.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới nhà nghiên cứu Văn hoá Dân

gian Nguyễn Thiện Tứ và Thƣ viện tỉnh Cao Bằng đã cung cấp tƣ liệu và

nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, ngƣời thân đã động viên

và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.

Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã đọc và chỉ ra

những thành công cũng nhƣ hạn chế của luận văn.

Thái Nguyên, ngày 15 tháng 11 năm 2009

Tác giả

ĐÀM THUỲ LINH

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 0

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU................................................................................................................0

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.................................................................................1

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ........................................................................................2

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU..............................................6

3.1. Mục đích nghiên cứu...................................................................... 6

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 6

4. PHẠM VI ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU.....................................................6

4.1. Phạm vi nghiên cứu........................................................................ 6

4.2. Đối tượng nghiên cứu..................................................................... 7

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................................7

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ....................................................................7

7. BỐ CỤC LUẬN VĂN....................................................................................8

NỘI DUNG ............................................................................................................9

Chƣơng 1: HÁT QUAN LANG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA

NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG........................................................9

1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày.................................................................9

1.1.1. Cộng đồng ngƣời Tày Cao Bằng............................................... 9

1.1.2. Cộng đồng ngƣời Tày Thạch An - Cao Bằng.......................... 10

1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên của huyện Thạch An ........................... 10

1.1.2.2. Xã hội – Văn hoá.............................................................. 11

1.2. Một số vấn đề chung về hát Quan lang....................................................17

1.2.1. Khái niệm hát Quan lang........................................................ 17

1.2.2. Nguồn gốc của hát Quan lang................................................. 20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1

1.2.3. Hát Quan lang trong đời sống tinh thần của ngƣời Tày ở

Thạch An - Cao Bằng ....................................................................... 21

1.3. Nghi lễ đám cƣới và trình tự một cuộc hát Quan lang ở Thạch An – Cao

Bằng .................................................................................................................22

Chƣơng 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG LỜI HÁT QUAN LANG

Ở THẠCH AN - CAO BẰNG .............................................................................36

2.1. Lối thử thách bằng thơ.............................................................................36

2.2. Bài học về cách ứng xử và đạo lý làm ngƣời ...........................................51

2.3. Sự trân trọng đối với ngƣời phụ nữ.........................................................62

2.4. Lời cầu chúc cho lứa đôi hạnh phúc và gia chủ an vui ...........................67

Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG LỜI

HÁT QUAN LANG.............................................................................................76

3.1. Nhân vật trữ tình......................................................................................76

3.2. Thời gian diễn xƣớng................................................................................77

3.3. Không gian diễn xƣớng ............................................................................79

3.4. Thể thơ ......................................................................................................80

3.2.1. Thể thơ ngũ ngôn ...................................................................... 80

3.4.2. Thể thơ thất ngôn ...................................................................... 83

3.4.3. Thể thơ tự do.............................................................................. 85

3.5. Ngôn ngữ...................................................................................................90

3.5.1. Sự đan xen ngôn ngữ các dân tộc ............................................. 90

3.5.2. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh, giàu chất thơ....... 94

KẾT LUẬN........................................................................................................ 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 109

PHỤ LỤC........................................................................................................... 113

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá đa dạng phong phú nhƣng

thống nhất. Đó là nền văn hoá đƣợc tạo bởi các dân tộc anh em cùng chung

sống xen kẽ khắp dải đất hình chữ S của Tổ quốc. Do vậy, bên cạnh việc tìm

hiểu văn hoá của ngƣời Việt cần chú trọng tìm hiểu văn hoá của các dân tộc

thiểu số, những bộ phận văn hoá làm nên vẻ đẹp phong phú đa dạng của văn

hoá dân tộc.

Sau một thời gian chƣa đƣợc chú ý sƣu tầm, nghiên cứu đúng với tầm

vóc của nó, mấy thập kỷ gần đây một số hình thức văn hóa dân gian có chức

năng nghi lễ sinh hoạt thực hành của các dân tộc ít ngƣời nhƣ: Mo Mƣờng,

hát cúng ma của ngƣời Mông, Then Tày, Hát Quan lang… đã đƣợc ngành văn

hoá, đặc biệt là ngành văn hoá dân gian chú ý khai thác.

Đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu hát Quan Lang về nhiều

phƣơng diện: nguồn gốc, nội dung, hình thức nghệ thuật, phƣơng thức diễn

xƣớng... Song chƣa có công trình nào nghiên cứu về hát Quan lang ở Thạch

An - Cao Bằng một cách toàn diện hệ thống.

1.2. Hát Quan lang là loại hình văn hoá, văn nghệ mang đậm tính sinh

hoạt quần chúng, nhƣng mặt khác nó còn là loại hình sinh hoạt văn hoá phong

tục. Vì thế để giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Tày ở Thạch An nói riêng và ở

Cao Bằng nói chung, chúng ta cần quan tâm khai thác nghiên cứu phong tục

hát Quan lang một cách khoa học, nhằm phát huy thế mạnh của nó trong đời

sống hiện đại.

Hát Quan lang là loại hình dân ca độc đáo đƣợc hát trong lễ cƣới của

ngƣời Tày Thạch An nói riêng và ngƣời Tày Cao Bằng nói chung. Tìm hiểu

hát Quan lang của ngƣời Tày ở Thạch An là công việc hữu ích góp phần vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2

việc bảo tồn, giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc. Đồng thời

cũng là tìm hiểu và phát huy truyền thống nhân văn của dân tộc Tày qua loại

hình sinh hoạt văn hoá phong tục này.

1.3. Đề tài này không chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực nghiên cứu văn học

và văn hoá dân gian của các dân tộc ít ngƣời mà còn mang ý nghĩa thiết thực

hơn đối với một giáo viên dạy văn đƣợc sinh ra và lớn lên ở Cao Bằng nhƣ

tôi, muốn đóng góp một phần công sức rất nhỏ bé cho tỉnh nhà trong lĩnh vực

tìm hiểu khám phá các giá trị, văn hoá dân gian độc đáo của dân tộc Tày ở

Thạch An nói riêng và Cao Bằng nói chung.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Nền văn hoá Việt Nam đƣợc cấu thành bởi văn hoá của 54 dân tộc, đó là

nền văn hoá kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của

các dân tộc anh em trong đại gia gia đình các dân tộc Việt Nam. Trong đó,

văn hoá các dân tộc thiểu số góp phần quan trọng làm nên diện mạo phong

phú, đa dạng của bức tranh văn hoá Việt Nam. Việc nghiên cứu và khai thác

văn hoá Tày ở Việt Bắc sẽ không chỉ nhằm đi sâu khai thác những giá trị tƣ

tƣởng và thẩm mỹ về văn hoá của dân tộc, mà phần nào còn làm sáng tỏ diễn

trình văn hoá Việt Nam trong lịch sử.

Công tác sƣu tầm và nghiên cứu văn hoá dân gian Việt Bắc đã đƣợc nhen

nhóm từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Đặc biệt là từ sau Hội nghị

bàn về công tác sƣu tầm văn hoá dân gian ở Miền Bắc tháng 12 năm 1964.

Nhiều nhà sƣu tầm đã đi điền dã điều tra ở khu vực Việt Bắc, kết quả là đã sƣu

tầm đƣợc một số thể loại của văn học dân gian nhƣ là Then, hát Quan lang của

ngƣời Tày, hát cúng ma của ngƣời Mông.v.v... đóng góp cho kho tàng văn hoá

dân gian nói chung và văn hoá dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng một nguồn

tài liệu đặc biệt có giá trị. Trong thời gian này, công trình nghiên cứu về hát

Quan lang chƣa nhiều, chỉ là một số bài viết đƣợc đăng trên báo chí.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3

Đến năm 1973, trong cuốn “Dân ca đám cƣới Tày - Nùng”, Nông Minh

Châu đã tập hợp hơn 100 bài hát đám cƣới Tày – Nùng. Tác giả sƣu tầm và

dịch từ nguyên văn thơ Tày - Nùng ra tiếng Việt. Bên cạnh giá trị sƣu tầm,

cuốn sách đã khá thành công trong việc dịch thơ: lời thơ, hình ảnh khá sát

thực, sinh động. Bởi vậy gần nhƣ không có khoảng cách đáng tiếc giữa thơ

nguyên bản và thơ tiếng Việt. Cuốn sách là tƣ liệu quý giá cho tất cả những ai

muốn tìm hiểu về “Dân ca đám cƣới Tày - Nùng”. Tác giả Vi Quốc Bảo đã

viết lời giới thiệu cho cuốn sách này. Bài giới thiệu có những nhận xét, đánh

giá, phát hiện xác đáng về diễn xƣớng, về nội dung và cả nghệ thuật của dân

ca đám cƣới Tày - Nùng: “Những bài hát đó kéo dài suốt quá trình đám cƣới

và chỉ kết thúc khi các nghi thức đám cƣới đã đƣợc thực hiện đầy đủ”, “Các

bài hát đám cƣới là một yêu cầu về sinh hoạt văn hoá văn nghệ”, “giá trị của

những bài hát đám cƣới là đã phản ánh, miêu tả xã hội và đời sống của dân

tộc Tày”. [5]

Nhƣ vậy, cuốn sách “Dân ca đám cƣới Tày - Nùng” của Nông Minh

Châu xuất bản đã cho ta những tƣ liệu quý giá và những hiểu biết ban đầu rất

cần thiết, đặc biệt là về phƣơng diện diễn xƣớng dân ca Tày - Nùng.

Năm 1974, trong cuốn “Bƣớc đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc”, [33 ]

có bài viết của Lƣờng Văn Thắng “Tìm hiểu nội dung của một số bài thơ

Quan lang”, của Vi Quốc Bảo “Những bài hát đám cƣới - Những bài thơ trữ

tình”. Trong bài viết của tác giả Lƣờng Văn Thắng có đoạn nhận xét: “Thơ

Quan Lang của dân tộc Tày chẳng qua cũng là một phƣơng thức phản ánh

một quan niệm sống, một sự biết ơn, một sự ca ngợi, một sự khiêm tốn đáng

quý... phản ánh truyền thống đạo đức của dân tộc một cách kín đáo, duyên

dáng nhƣng đậm đà.” [33, tr. 83]. Nhận xét có tính khái quát, nếu triển khai

ta sẽ thấy đúng với nội dung của dân ca đám cƣới Tày - Nùng. Vi Quốc Bảo

cũng thấy rõ: “Trong dân ca đám cƣới Tày - Nùng, đôi bên nam nữ giãi bày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4

tƣ tƣởng, thái độ tình cảm của mình. Nhƣ vậy, dân ca đám cƣới không chỉ là

những bài ca nghi lễ khô cứng mà còn bao hàm cả thành phần giao duyên.”

[33, tr.70]. Cũng trong sách này, tác giả Vi Hồng trong bài “Nội dung của

lƣợn” có nhận xét: “Thơ Quan lang vừa cũ lại vừa mới, vừa lạ lại vừa quen,

vừa định hình mà lại linh hoạt biến đổi phù hợp... nhƣ vị khách du lịch... nhập

gia tùy tục”.

Năm 1973, trong bà i “Và i suy nghĩ về hát Quan lang, lƣợn, Phong slƣ”

[14, tr. 51-61 ], tác giả Vi Hồng đã giới thiệu khái quát về hát Quan lang và

nguồn gốc của nó.

Nhƣ vậy, từ năm 1970 đến 1980, số lƣợng sách và các bài báo về hát

Quan Lang không nhiều nhƣng cũng đủ giúp ta hình dung bƣớc đầu về diện

mạo hát Quan Lang.

Đến những năm 80 của thế kỷ XX mặc dù trong văn kiện đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ V, Đảng ta đã khẳng định vị trí và vai trò của văn hoá dân

gian các dân tộc ít ngƣời trong nền văn hoá Việt Nam, nhƣng công tác sƣu

tầm, nghiên cứu lời hát Quan Lang vẫn còn hạn chế .

Năm 1995, trong cuốn “Tục cƣới xin của ngƣời Tày” [1], Triều Ân -

Hoàng Quyết đã giới thiệu về tục cƣới xin và lễ cƣới của ngƣời Tày; thơ

Quan Lang, Pả Mẻ đƣợc sƣu tầm ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Tuyên

Quang, Yên Bái, Hà Giang; phƣơng hƣớng bảo tồn, kế thừa, phát triển hát

Quan Lang.

Trong cuốn “Văn hóa truyền thống Tày - Nùng” [37], in năm 1996, Nhà

xuất bản Văn hóa Dân tộc cũng dành một chƣơng giới thiệu hát đám cƣới Tày

- Nùng. Cả hai cuốn sách nói trên là nguồn tƣ liệu cần thiết cho ngƣời viết đề

tài này.

Năm 2001, trong cuốn “Thì thầm dân ca nghi lễ” [17], Vi Hồng đã đề

cập đến sự chuyển hóa của một số hình tƣợng chính qua ba tiểu loại chính của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5

Sli, Lƣợn: Lƣợn Quan Lang; Sli, Lƣợn lề lối và điệu lƣợn Phong Slƣ và một

số yếu tố nghệ thuật tạo ra phong cách riêng của Sli và Lƣợn nói chung “Đó

là phong cách hài hòa giữa lý trí và tình cảm, giữa cảm xúc thi ca hồn nhiên

và sự thông minh linh hoạt về trí tuệ”.

Năm 2002, Hoàng Thị Cành với đề tài nghiên cứu “Phong tục hôn nhân

ngƣời Tày Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng” [6] cũng đã giới thiệu khá toàn diện

về phong tục hôn nhân của ngƣời Tày Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng và văn bản

thơ Quan Lang đƣợc ghi chép, sƣu tầm bằng chữ Nôm, phiên âm Tày và dịch

ra tiếng Việt.

Cũng trong thời gian này, ở Trƣờng đại học sƣ phạm Thái Nguyên có

một đề tài nghiên cứu khoa học cũng đã bƣớc đầu nghiên cứu về thơ Quan

lang ở xã Phƣơng Viên, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.

Năm 2004, Lộc Bích Kiệm với luận văn “Đặc điểm dân ca Tày - Nùng

xứ Lạng” [21] đã xác lập đƣợc những đặc điểm căn bản của dân ca đám cƣới

Tày - Nùng trên các phƣơng diện: diễn xƣớng, nội dung, thi pháp. Đặc biệt

ngƣời viết đi sâu vào phần thi pháp để thấy đƣợc sự độc đáo của bộ phận dân

ca này.

Trong sách “Thơ Quan lang” [49] xuất bản năm 2008, Nguyễn Thiện Tứ

đã giới thiệu trình tự những lời thơ Quan lang ở Thạch An - Cao Bằng, song

chƣa nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc nội dung và hình thức nghệ thuật

của văn bản ngôn từ.

Hát Quan lang ở Thạch An - Cao Bằng hiện nay vẫn chƣa đƣợc khai

thác, nghiên cứu một cách triệt để trong một công trình khoa học nào.

Hiện nay, hát Quan lang vẫn còn tồn tại trong đời sống văn hoá tinh thần

của ngƣời Tày ở Việt Bắc nói chung và ở Thạch An - Cao Bằng nói riêng. Nó

trở thành một nhu cầu sinh hoạt văn hoá của đồng bào dân tộc vào dịp đám

cƣới. Hát Quan lang vẫn tiếp tục đƣợc các thế hệ ngƣời Tày ở nhiều địa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6

phƣơng tiếp thu, sáng tạo và bổ sung. Vì thế, Hát Quan lang ở mỗi địa

phƣơng có sắc thái riêng, nên vấn đề nghiên cứu hát Quan lang ở mỗi địa

phƣơng, chính là đi khám phá sự đa dạng phong phú của hát Quan lang.

Những bài viết và những công trình nghiên cứu ở trên là tiền đề gợi mở

giúp cho chúng tôi thực hiện đề tài này.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Tìm hiểu phong tục tập quán, hiểu đƣợc đời sống vật chất và tâm tƣ

tình cảm của ngƣời Tày qua lời hát Quan lang ở Thạch An - Cao Bằng.

- Để thấy đƣợc tài năng nghệ thuật của các nghệ sĩ dân gian và những giá

trị (nội dung và nghệ thuật) của Hát Quan lang .

- Qua đề tài nghiên cứu này chúng tôi muốn đóng góp một phần nhỏ bé

của mình vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Tày.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tế liên quan đến đề tài.

- Khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích và lý giải những vấn đề liên

quan đến hát Quan lang chủ yếu từ góc độ Văn học dân gian.

- Trong điều kiện có thể chúng tôi đi điền dã và sƣu tầm thêm đƣợc một

số lời hát Quan lang ở Thạch An – Cao Bằng chƣa đƣợc xuất bản.

4. PHẠM VI ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU

4.1. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Đề tài chú trọng vào phần lời hát Quan

lang, tuy nhiên có chú ý đặt yếu tố ngôn từ trong đặc trƣng nguyên hợp của

văn học dân gian, nghĩa là yếu tố ngôn từ đƣợc đặt trong môi trƣờng và nghệ

thuật diễn xƣớng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7

- Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu, khảo sát: Nguyễn Thiện Tứ, sƣu tầm,dịch

(2008), Thơ Quan Lang, Nxb Văn hóa dân tộc, H. và những lời hát Quan lang

đã sƣu tầm thêm đƣợc trong quá trình đi điền dã

4.2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu chính là lời hát Quan lang ở Thạch An – Cao Bằng

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Trên bình diện phƣơng pháp luận là tiếp cận chủ yếu theo quan điểm

nghiên cứu ngữ văn (hay ngữ văn học), tức là dựa vào thành tố ngôn từ (lời

hát Quan lang) để phân tích.

- Tuy nhiên, hát Quan lang là một sinh văn hóa cộng đồng hiện vẫn còn

tồn tại trong đời sống văn hóa của ngƣời Tày ở Thạch An - Cao Bằng. Vì vậy,

việc nghiên cứu hát Quan lang là nghiên cứu một hiện tƣợng văn hóa dân gian

đang tồn tại và phát triển trong môi trƣờng văn hóa. Cho nên, nghiên cứu hát

Quan lang không phải chỉ là nghiên cứu văn bản đã đƣợc sƣu tầm mà còn

phải đặt văn bản trong môi trƣờng diễn xƣớng của nó. Thực hiện đề tài này,

chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp cụ thể:

+ Phƣơng pháp điều tra điền dã.

+ Phƣơng pháp khảo sát thống kê.

+ Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp.

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Hệ thống hóa những vấn đề đã đƣợc nhiều ngƣời nghiên cứu.

- Làm sâu sắc hơn một số vấn đề mà ngƣời nghiên cứu trƣớc mới bắt đầu

tìm hiểu.

- Góp phần tìm hiểu những truyền thống văn hóa tốt đẹp của ngƣời Tày

qua lời hát Quan lang ở Thạch An - Cao Bằng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8

7. BỐ CỤC LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm

ba chƣơng:

Chƣơng 1: Hát Quan lang trong đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở

Thạch An - Cao Bằng

Chƣơng 2: Nội dung cơ bản trong lời hát Quan Lang ở Thạch An - Cao Bằng

Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật trong lời hát Quan lang ở

Thạch An - Cao Bằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9

NỘI DUNG

Chƣơng 1:

HÁT QUAN LANG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA

NGƢỜI TÀY Ở THẠCH AN - CAO BẰNG

1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày

1.1.1. Cộng đồng người Tày Cao Bằng

Cao Bằng là một tỉnh biên giới phía Bắc của Tổ quốc nơi cƣ trú của

nhiều dân tộc: Tày, Nùng, Mông, Dao... nhƣng số lƣợng lớn hơn cả là ngƣời

Tày, chiếm khoảng 43% dân số toàn tỉnh “Ngƣời Tày là dân cƣ bản địa giữ vị

trí quan trọng trong lích sử cổ đại, trung đại và hiện đại ở vùng biên giới

phía Bắc nƣớc ta. Ngƣời Tày là những cƣ dân sớm có mặt trong thành phần

cƣ dân nƣớc Văn Lang xa xƣa và là một trong những dân cƣ sáng lập nên

nhà nƣớc Âu Lạc” [53, tr. 84].

Ngƣời Tày ở Cao Bằng đƣợc hình thành từ ba nhánh :

- Nhánh ngƣời Tày gốc còn gọi là thổ, có nghĩa là thổ dân, là chủ nhân

của địa phƣơng từ lâu đời, nhánh này là con cháu lâu đời của ngƣời Tày cổ.

Hát Quan lang là sản phẩm văn hoá của nhánh Tày này .

- Nhánh ngƣời Ngạn: Có nguồn gốc ở Quý Châu, Trung Quốc. Theo “Sơ

khảo lịch sử Cao Bằng”, trong các cuộc giao tranh giữa các tộc ngƣời, ngƣời

Ngạn đã dạt sang Cao Bằng sinh sống, sát nhập vào cƣ dân địa phƣơng trở

thành ngƣời Tày .

- Nhánh ngƣời Kinh hoá Tày là con cháu các viên quan và binh lính

ngƣời kinh dƣới xuôi lên cai quản bảo vệ biên giới, họ lấy vợ ngƣời Tày, con

cháu họ lập nghiệp ở địa phƣơng lâu dần chuyển thành ngƣời Tày, Kinh dƣới

xuôi lên đồng hoá với ngƣời Tày nhiều nhất là khi nhà Mạc lên lập Vƣơng

triều ở Cao Bằng (1594-1677).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10

1.1.2. Cộng đồng người Tày Thạch An - Cao Bằng

1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên của huyện Thạch An

Huyện Thạch An nằm ở phía Đông nam tỉnh Cao Bằng cách trung tâm

thị xã Cao Bằng về hƣớng Nam theo đƣờng số 4, có toạ độ địa lý:

Từ 220

21’,22’’ đến 220

36’16’’ vĩ Bắc (Từ bản Nà Vài, xã Trọng Con đến

bản Pác Pẻn, xã Canh Tân).

Từ 1060

05’40’’ đến 1060

34’02’’ Kinh Đông (từ Nà Pùng, xã Quang

Trọng đến Bản Mới, xã Đức Long).

Phía Nam giáp huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn. Phía Bắc giáp huyện

Hoà An. Phía Tây giáp huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Cạn. Phía Đông giáp huyện

Long Châu tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc. Huyện Thạch An hiện nay đƣợc

chia thành 16 đơn vị hành chính cấp xã: Kim Đồng, Thái Cƣờng, Vân Trình,

Lê Lai, Thị Ngân, Thụy Hùng, Đức Long, Danh Sỹ, Thƣợng Pha, Đức Xuân,

Lê Lợi, Trọng Con, Đức Thông, Canh Tân, Minh Khai, Quang Trọng và Thị

trấn Đông Khê.

Tổng diện tích tự nhiên: 683,03 km2 tƣơng đƣơng 68303 ha. Tổng dân

số hiện nay của huyện Thạch An là 31.777 ngƣời (số liệu điều tra tháng 4 năm

2009) gồm 6 dân tộc chính cùng chung sống là dân tộc: Tày (43,5%), Nùng

(39%), Mông (0,9%), Dao (13,6%), Kinh (2,6%), Hoa (0,12%). Ngoài ra còn

một số ít ngƣời dân tộc sống đan xen: Ngài, Chăm, Sán Chỉ, Ê Đê. [51, tr.

815-816].

Địa hình có dạng hình cánh cung, xen giữa các cánh cung là những dải

trũng rộng và những dòng sông, dòng suối là điều kiện thuận lợi cho phát

triển nông nghiệp. Địa hình đồi thấp, thoải hay lƣợn đều có khả năng trồng

trọt hoặc chăn nuôi lớn. Khí hậu chia làm bốn mùa rõ rệt nên canh tác trồng

trọt theo mùa. Giới động thực vật phong phú nhiều chủng loại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11

Từ xa xƣa, tộc ngƣời Tày chủ yếu sống dựa vào trồng trọt và cày cấy

mùa màng. Là những cƣ dân với kinh nghiệm trồng trọt lâu đời, đồng bào Tày

đã biết khai thác các thung lũng, đồi núi nơi sinh sống thành những cánh

đồng, những thềm ruộng bậc thang, những vƣờn cây ăn trái màu mỡ xanh tốt.

Với địa bàn cƣ trú chủ yếu là ở các thung lũng nhiều đồng ruộng nên ngƣời

Tày ít làm nƣơng.

Cơ cấu kinh tế hiện nay của Thạch An chủ yếu là kinh tế nhiều thành

phần nông lâm kết hợp, chăn nuôi, kinh doanh thƣơng nghiệp và dịch vụ.

Tiềm năng khai thác chủ yếu vẫn là sản phẩm nông nghiệp, sản xuất phụ

thuộc nhiều vào thiên nhiên, do đó tốc độ tăng trƣởng của ngành các cây rau

màu khác, mức tăng trƣởng bình quân hàng năm từ 3 - 6% đời sống của nhân

dân dần dần đƣợc ổn định.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, môi trƣờng tự nhiên cũng

gây ra không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống con ngƣời. Chế độ mƣa

theo mùa và mƣa nhiều dẫn đến tình trạng mƣa lớn gây ra quá trình rửa trôi

xói mòn đất và lũ lụt.

Về mùa đông, Thạch An cũng chịu ảnh hƣởng của gió mùa Đông Bắc,

các hiện tƣợng thời tiết nhƣ sƣơng muối, băng giá đều gây ảnh hƣởng xấu đến

sản xuất và đời sống con ngƣời, nhất là ở thời xa xƣa khi cuộc sống của cƣ

dân Tày còn lạc hậu, thiếu thốn.

Phải chăng hình thức hát Quan lang ra đời và tồn tại là để đáp ứng nhu

cầu thƣởng thức văn nghệ và gửi gắm những khát vọng tinh thần của họ.

1.1.2.2. Xã hội – Văn hoá

* Về xã hội:

Thạch An là huyện có nhiều dân tộc anh em đang định cƣ và sinh sống,

trong đó đông nhất là dân tộc Tày, Nùng, Dao, còn lại là các dân tộc anh em

khác. Dân tộc Tày sống thành từng làng, bản có từ 40 - 60 gia đình trở lên

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!