Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Hai Bà Trưng trong văn hóa Việt Nam
PREMIUM
Số trang
308
Kích thước
13.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
792

Hai Bà Trưng trong văn hóa Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

NGL YỄN BÍCH NGỌC

TRỌNG „ ,

VAN HỌẠ

VIET NAM

ỈỈÍJ \ĩ NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN

HAI BẢ TRƯNG

TRONG VẦN HOÁ VIỆT NAM

NGUYỄN BÍCH NGỌC

HAI BÀ TRƯNG

T R O N G V Ă N H O A

V IÊ T N A m

NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN

Đồi nét vê nghiên cứu

Hãi Bà Trưng

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là một sự kiện

trọng đại và vinh quang trong lịch sử nước ta. Nhưng

viết về lịch sử Hai Bà cho đến nay vẫn còn là một khó

khăn chưa thể vượt qua đưỢc. Ngay tên họ của hai bà

(Trưng Trắc, Trưng Nhị) cũng còn phải xác định mới

có câu trả lời khoa học chính xác. Bà Trưng là c on

cháu vua Hùng, nhưng hệ gia phả là thế nào, thật khó

lòng mà biết đưỢc. Hơn nữa, xã hội Văn Lang lúc ấy,

cụ thể trên đất Mê Linh là một xã hội như thế nào.

Cũng đã có những giả thuyết như Mê Linh có lẽ là

phiên âm từ tên gọi một loại chim - chim M'ling? Và

vậy là có thể vùng này là một bộ tộc lấy con chim ấy

làm vật tổ? Nhưng nếu đẩy lịch sử đi xa như vậy, thì

lại không hỢp vối những gì đã được ghi chép ở nưốc

ngoài. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà được sử nhà Hán chính

thức ghi chép, vẫn phải gọi là bà Trưng Vương. Kẻ đi

đàn áp lại là một tướng anh hùng bách chiến, thì nhất

định cơ đồ lúc bấy giờ, tuy chưa chính thức tuyên bô"

lập quô"c, vẫn phải đạt đến một trình độ tiến hoá nhất

định, chứ không thể chỉ là bộ tộc hay thị tộc. Nhất là

đến nay, ta đã khẳng định được thòi kỳ lịch sử Hùng

Vương là một triều đại hẳn hoi, chứ không phải

chuyện huvễn hoặc để ra phần ngoại sử. Cuộc khởi

nghĩa bà Trưng và triều đại TrUng Vương phải là một

tồn tại khẳng định. Nhiệm vụ của giới nghiên cứu sử

học hiện nay và mai sau, nhất định phải làm cho rõ

ràng và đầy đủ sự kiện này.

Do đó, mà lâu nay, về Hai Bà Trưng chúng ta chỉ

mới có đưỢc dăm bảy dòng ghi trong sách giáo khoa

tiểu học, mà lên đến các cấp học cao hơn, cũng không

thể bô sung đưỢc gì. Song thực tế cuộc sông lịch sử

trong 20 thế kỷ qua thì lại khẳng định vối chúng ta

một cách khác. Cụ thể là:

Nhân dân vô cùng thương kính, lập đền thờ Hai

Bà Trưng ở khắp nơi trong cả nước. Trong cõi linh

nghiêm hai Bà trở thành thần và luôn luôn ứng hiển,

phù hộ cho nhân dân, đất nước.

Đền thò chính của Hai Bà Trưng ở Hát Môn (Hà

Tây) và Hạ Lôi (Vĩnh Phú). Một đền Hai Bà Trưng nữa

ở Đồng Nhân (quận Hai Bà Trưng - Hà Nội). Đền này

được xây từ năm 1142, ở triều vua Anh Tông, nhà Lý.

Tương truyền sau khi chết, khí anh linh của Hai

Bà kết thành tượng đá, theo dòng nước trôi xuôi, mãi

tới thời Lý mới tối vùng Thăng Long. Một đêm đầu

tháng hai âm lịch, hai pho tượng toả sáng trên dòng

sông Nhị, trước bãi Đồng Nhân, dân làng lấy vải đỏ

làm lễ buộc tượng đón bà vào. Tượng đá có cái thế hai

tay giơ cao như đang rẽ nước tiến lên, đầu đội mũ trụ,

thân mặc áo giáp đỏ, với tư thế lẫm liệt của người

chiến sỹ.

Vua truyền dựng đền thò, lại phát hai đôi ngà

trang trí hai pho tượng voi thò. Hàng năm theo tục lệ,

ngày 6 tháng 2 âm lịch, dân làng rước voi ra sông Nhị,

lấy nưốc giữa dòng vê làm lễ "mộc dục" (tắm tướng) và

dâng cúng quanh năm.

Đền xưa vẫn ở bãi Đồng Nhân, sát sông Hồng.

Năm 1819, bãi sông bị lở, đền đưỢc nhân dân chuyển

vào phía trong làng, tại thông Hương Viên, tức là đền

Hai Bà ở phố Đồng Nhân ngày nay.

Lịch những ngày lễ hội Hai Bà:

- Mồng 6 tháng giêng: ngày Vua Bà, đăng quang

- Mồng 6 tháng hai: ngày hội chính, lễ tắm tượng

- Ngày 1 tháng tám: Ngày thánh đản (sinh nhật)

- Ngày 8 tháng ba: ngày thánh hoá (Hai Bà Trưng

tự tận). Ngày này mới là hội chính ở đền Hát Môn.

Con số 36 nữ tưống Hai Bà Trưng là huyền tích,

cổ truyền. Con sô" 36 không phải là con sô" cụ thể, mà

là con sô" tượng trưng; rất đông, rất nhiều người, cả

nam lẫn nữ, cả miền núi lẫn miền xuôi đều tham gia

khởi nghĩa...

Vì vậy, người Choang ở Quảng Châu nói Bà Trưng

người Choang, người Nùng Long Châu thì nói Bà Trưng

người Nùng. Còn Bà Trưng của vùng châu thổ sông

Hồng thì rõ ràng là người Việt. Các triều đại vua Lý,

Trần... đã tiếp thu tinh thần dân tộc và rất tôn sùng hai

vị nữ anh hùng dân tộc. Đền Hai Bà được cấp 36 mẫu

ruộng, dân miễn phu phen, ruộng miễn tô thuế, để tập

trung vào việc đèn nhang, cúng bái trong đền.

Làng Việt Nam xưa có tục kết ngãi (kết nghĩa)

làng anh, làng em. Đồng Nhân cũng vậy, Đồng Nhân

kết ngãi với Phụng Công, cách xa 12km (xưa thuộc Bắc

Ninh) vối cả Hạ Lôi (Vĩnh Phú), Hát Môn (Hà Tây) đi

lại phải một ngày đưòng. Lý do kết nghĩa: cả bốn làng

cùng thò Hai Bà Trưng.

Tương truyền: Hạ Lôi là quê hương. Hát Môn là nơi

tụ nghĩa, tế cờ, truyền hịch. Phụng Công là nơi đóng

quân một thời gian và khi 100 dân Đồng Nhân rước

tưỢng đá vào bãi thì tình cờ có 38 người dân Phụng Công

phường chợ đi qua, liền xúm vào giúp sức, sau đó Phụng

Công cũng lập đền thờ Hai Bà. Hàng năm, cứ ngày 5

tháng 2 có 100 nam, nữ Phụng Công sang dự lễ tế bên

Đồng Nhân, mồng 7 mới về. Ngược lại, ngày 9 tháng 4,

năm nữ Đồng Nhân lại sang dự lễ hội bên Phụng Công,

dân 2 làng tiếp đón nhau ân cần, chu đáo. Hát Môn và

Hạ Lôi cũng đi lại thần thiết với dân làng Đồng Nhân.

Phong tục đẹp này xoay quanh hai vỊ nữ anh hùng. Đó là

hình ảnh đẹp tuyệt vời của lịch sử Việt Nam.

Các nữ tướng của Hai Bà Trưng cũng đều đưỢc

nhân dân thờ phụng và đều có thần tích ghi chép, tiểu

sử hành trạng. Lễ hội về các nữ tướng này nhiêu nơi

đã thành Hội lớn như các trường hỢp hội Hiền, hội

đền Nghè (nhiều nữa). Các vỊ nam tướng đa số trở

thành Thành Hoàng ở các làng. Tất cả những trường

hỢp này đều là hư cấu, là tưởng tượng cả hay sao? Có

thể là như thế, nhưng biết đâu cũng phải như cách

nhận định của Phạm Văn Đồng: "Dù có hư cấu đến

8

đâu, thì cũng phải có cái lõi lịch sử. Có lẽ nếu tìm

được đầy đủ và chính xác về những cái lõi này thì mới

có đưỢc tài liệu phong phú và đáng tin cậy về hiện

tượng lịch sử Hai Bà Trưng".

Thêm vào đó, cũng đến hàng mấy trám năm nay, đề

tài bà Trưng đã đưỢc các nhà văn, các nghệ sĩ sử dụng.

Có truyện lịch sử, có tiểu thuyết, có tuồng v.v... Tất

nhiên, ở địa hạt này thì khiếu tưởng tưdng của nhà văn

được tự do phát huy, nhiều nhân vật đã đưỢc sáng tạo,

có thể không đúng với sự thực lịch sử, nhưng lại đúng

với sự thực bản chất, và chính vì thế, mà làm cho chúng

ta hiểu rõ về bà Trưng hơn. Đặc biệt là thơ ca, các cuộc

thi đốì vịnh Hai Bà Trưng rất nhiều, nhiều bài có thể

xem là tuyệt bút. Còn phải chú ý đến cả những câu đối

ghi, khắc ở các đền thờ Hai Bà, thờ những nữ tướng. Ai

muôh cho là hư cấu, là tưởng tượng thì tuỳ, nhưng rõ

ràng là các câu đối đều có dụng ý khẳng định thành tích

cụ thể của những con người đưỢc thờ phụng. Phải chăng

đây cũng là những tài liệu văn bản giúp cho người

nghiên cứu đi tìm vang bóng của hiện tượng lịch sử này?

Từ cách nhìn nhận như thế, ta có thể thấy rằng

vấn đề Hai Bà Trưng không chỉ là một vấn đề lịch sử

mà còn là một vấn đề ván hoá. Có bà Trưng trong lịch

sử và trong văn hoá Việt Nam. Bà Trưng đã làm rực rỡ

cho lịch sử Việt Nam và cho cả văn hoá Việt Nam nữa.

ở những trang tiếp theo đây, ta sẽ đến với sự kiện

Hai Bà Trưng theo cách nhìn toàn diện như thế. Có

một điều rất đáng trân trọng là ngay từ đầu thế kỷ 20,

một nhà cách mạng Việt Nam đã hé thấy vấn đề. ông

xuất phát từ tinh thần dân tộc, tinh thần quốc gia để

nhìn nhận hiện tượng này. Và ngay lúc đó (những năm

ba mươi của thế kỷ) lúc mà quan niệm văn hoá chưa

đưỢc thấm nhuần như chúng ta hiểu bây giò, ông đã

đặt vấn đề Hai Bà Trưng một cách rất văn hoá.

Xin đưỢc trích dẫn bài viết ấy của ông. Bài đưỢc

đăng báo Tiếng Dân số 656 ngày 6-1-1934. Nguyên văn

như sau;

AI LÀ TỔ NƯỚC TA?

NGƯỜI NƯỚC TA VỚI SỬ NƯỚC TA

Quốc sử ở một nước cũng như gia phổ ở một nhà.

Nhà mà có gia phổ, thòi con cháu mới biết cao tằng khảo

tỷ của nhà mình. Nước mà có sách sử, thòi dân trong

nước mới biết công lao khó nhọc và sự nghiệp khai sáng

của tiên nhân mà sinh môi cảm tình mật thiết. Nếu làm

con cháu mà quên gia phổ, thòi chắc là con cháu bất

hiếu. Dân trong nưóc mà không biết quôh sử thời chắc

dân nước ấy là dân vong tổ. Lẽ ấy hiển nhiên.

Quái lạ thứ nhất là gần trên ngàn năm nay, người

nước ta, ai học Hán học thì thuộc sử Tàu làu làu, mà

gần ba mươi năm lại đây, ai là nhà Tây học thì nói sử

các nước ngoài luôn luôn, mà hễ hỏi tới sử Nam ta, thời

chỉ nghe mấy tiếng xoàng xoàng. Hồng, Lạc, Rồng,

Tiên, Đinh, Lý, Trần, Lê, lặp đi lặp lại. Chứ như hỏi

đến xã hội biến thiên thế nào, thời đại thay đổi thế nào,

10

việc gì giả, việc gì chân, người nào công, người nào tội,

hình như ít ai nghiên cứu tới.

Than ôi! Hán tổ Đường tôn có phải là cha ông ta

đâu? Vua Nã Phá Luân (Napoléon), vua Bỉ Đắc (Piere)

có phải là dòng giông ta đâu? Mà cớ sao các nhà cựu học,

tân học ta hết sức tìm tòi, ra công ghi nhố, đến như việc

sử cổ nưốc ta thòi không ai để ý đến. Tục ngữ có câu:

"Phật trong nhà, cầu Thích Ca ngoài đưồng". Tôi không

dám bảo ngoài đường không có Thích Ca, hay Thích Ca

ngoài đường không bổ ích cho ta. Nhưng theo nguyên lý

của loài người tất phải biết Phật trong nhà đã.

Phật trong nhà mình là ai?

Chính là những tiên nhân ở trong sử nưốc ta, mà

là người có công đức với nòi giông dòng họ ta.

Từ đây sắp xuông tôi xin tìm tòi ở trong sử nưốc ta

mà biện biệt cho ra cái chân và cái giả.

Sử nưốc ta từ đời Thái cổ trước Tây lịch 2879 năm

cho đến sau Tây lịch 111 năm, tất thảy là việc truyền văn;

bảo rằng Hồng Bàng thị mà không biết có Hồng Bàng thị

hay không, bảo rằng Lạc Long Quân mà không biết có

Lạc Long Quân hay không. Bởi vì lúc đó nước ta chưa có

văn tự, chưa có sử sách, chỉ theo ở miệng truyền tai nghe.

Nói rằng: người đẻ ra trăm trứng, nửa thuộc về loài rồng,

nửa thuộc về loài tiên, cứ theo sinh lý học mà suy ra, thiệt

là theo lốì thần quỉ mê tín không đích xác gì.

Đến như Hùng Vưdng 18 đời, thời cũng thảy truyện

truyền văn, chớ không biết có thiệt không. Qua đòi Hùng

Vương mà đến An Dương Vương là người nước Ba Thục.

11

Sau đòi An Dương Vương tiếp lấy Triệu Võ Đế, tức là

Triệu Đà, thời Đà lại là người quận Trường Sa nước Tàu

mà sang chiếm cứ cả đất nước Ảu Lạc, có dây dính đến

nòi Việt Thường ta đâu. Tiếp đó, đến nội thuộc Tây Hán

rồi Đông Hán, tất thảy là người Tàu qua cai trị đất ta,

chố chân chính tổ tiên ta là ai, nào ai có biết?

Sách xưa có câu: "Vô trưng bất tín" nghĩa là không

có chứng cớ thì không lấy gì làm tin đưỢc. Sử nưốc ta

trở về trước nhiều điều vô trưng, thời bỏ quách đi e có

lẽ đúng hơn.

Bây giò tôi mới nhận ra đưỢc một người, mà thật là

người tổ đích nưóc ta, người ắy là Trưng Nữ Vương. Bà

nguyên người huyện Mê Linh, xứ Châu Phong, họ

Trưng tên Trắc. Bà sinh gặp lúc người Tàu cai trị nưốc

ta, Tô Định làm Thái Thú, giết chồng bà là Thi Sách

(người huyện Chu Diên, hiện đời bây giờ thuộc tỉnh Sơn

Tây). Bà vói em là cô Nhị, giận thù thương nước, khởi

binh đánh thành Giao Châu, đuổi Tô Định, Định trôn

về đất Tàu, bà kéo quân đuổi theo, tối đâu, châu quận

hưởng ứng cả, lấy suốt 65 xứ Lĩnh Nam. Lúc bấy giờ

vua Tàu kinh hoảng quá, phải khiến một vỊ trung hưng

lão tướng là Mã Viện đem 10 vạn quân qua đánh, bà vì

thế cô, chúng yếu, không địch lại, chị em cùng nhau tự

tử ở Cấm Khê. Ke từ ngày bà khởi binh cho đến ngày

bà tuẫn nạn làm cho nước ta đưỢc độc lập là 4 năm. Đó

là một vị Phật nhà, là tổ nước Nam ta.

Độc giả xem tới đó, tất có người nói: "Trưng Nữ

vương là đàn bà không đáng gọi là tổ". Nói thế là quá

câu nệ: lúc bắt đầu loài người mới sinh ra, chỉ biết có

12

mẹ mà không biết có cha thì gọi mẹ là tổ, thì có hại gì.

Tôi dám chủ trương thuyết ấy, có hai lẽ:

1. Theo về lịch sử học - Xem lịch sử nước ta, bắt đầu

mở sách, từ Hồng Bàng kỷ cho đến nội thuộc Đông Hán

kỷ, chẳng thấy một người nào thật họ thật tên mà rành

rành là người nước Việt Nam ta. Duy đến Trưng Nữ

vương mới thấy có ba chữ tên thật mà rành rành là

người nưốc Việt Nam ta, thế thì tổ loài người Việt Nam

ta, chẳng phải là bà Trưng Nữ vương thời còn ai nữa?

Nếu các nhà học lịch sử ta có tìm tòi lục soát mà thấy

đưỢc trước bà Trưng Nữ vương còn có người nào chần

đích là người nước Việt Nam ta, thì tôi xin nhận tôi là

người thất thiệt.

2. Theo về nhân loại tăm lý học - Hễ tâm lý loài

người, trưốc hết ai cũng quý trọng yêu mến một người,

tất là người sinh đẻ mình, tức là cha mẹ, hoặc là người

có công đức to lớn với chúng ta, mới khiến cho chúng ta

yêu mến nhắc nhở. Thử nghĩ hơn một nghìn năm ở trong

lịch sử, đến bà Trưng Nữ vương, mới thấy có một người

bắt đầu chống cự với nước Tàu, mà khiến cho chúng ta

được cái vinh dự độc lập. Từ đó sắp đi, noi theo bà mới có

Triệu Quang Phục, Lý Bí, Ngô Vương Quyền, Trần

Hưng Đạo, Lê Lợi mà nước ta mới có chủ quvền một

nước, thay hẳn cái tên đầu mục, tù trưởng mà thành ra

một danh hiệu quốc vương. Thế thời truy nguyên ra

không phải bà Trưng đẻ ra các bậc anh hùng ấy sao?

Không phải là người có công đức to lớn với nước ta sao?

Than ôi! Gần hai ngàn năm nay, bưng bít ở trong

rừng thần non quỷ của người nưởc Tàu, giày đạp ở dưối

13

bánh xe chân ngựa của người nước Tàu. Chẳng biết

Việt-Thường là cái gì, chẳng biết Giao Chỉ là cái gì, chỉ

cúi đầu nghe theo nước "con trời", họ bảo ta thế nào, ta

cũng nghe theo như vậy!

Nước ta từ Trưng Nữ vương về trước, bảo rằng

không có người e cũng là đúng sự thật lắm. Thế mà

thình lình có một người con gái ở huyện Mê Linh đột

nhiên dám xoang tay rán cánh đuổi quân Tàu làm tiên

phong đội cho quân độc lập ở nước ta, mà sử nước ta

vmới bắt đầu có ba chữ tên họ Trưng Nữ vương là người

nước ta, chẳng những làm vẻ vang cho nước ta mà thôi,

mà cho cả đến nước Tàu thời Đông Hán kỷ cũng có mấy

chữ viết to là Giao Chỉ Nữ Tử Trưng Trắc mà ở tỉnh

Quảng Tây, phủ Thái Bình nưốc Tàu cũng có một cái

miếu thờ có ba chữ biển đề rằng Trưng Vương miếu.

Chứng cớ như thế thời bảo bà Trưng là người sinh

đẻ ra người nước Nam ta, là người có công đức lớn vối

nưóc Nam ta ai lại không thừa nhận được? sử học ngày

nay theo khoa học mà cùng tới, không thể bằng theo

thuyết thần bí huyễn hoặc mà cần phải căn cứ vào sự

thực. Vậy căn cứ sự thực trên lịch sử thì tôi nhất định

nhận hà Trưng Nữ vương là thuỷ tổ. Các nhà sử học

trong nước nghĩ sao?

Sào Nam Phan Bội Châu

(Báo Tiếng dân số 656 ngày 6-1-1934/''

Báo lưu ỏ kho sách gia đình chúng tôi. Cụ Quả Ngôn giữ được báo

Tiếng dân từ số đầu đến số cuối, để lại cho con cháu.

14

Chương I

cuộc KHỞI NGHĨA

HAI BÀ TRƯNG

A. NƯỚC VIỆT NAM THỜI cổ ĐẠI

VÀ BẮC THUỘC

Từ khi người Việt Nam thành lập nước tới nay đã

trải qua trên bôn ngàn năm lịch sử. Nước ta từ thượng

cổ ở vê phía Đông Nam Châu Á. Phía Đông giáp biển.

Phía Tây còn đang là thòi bộ lạc, chưa lập quốc (sau là

nưốc Lào và Cao Miên). Phương Bắc giáp nưốc Tàu, là

thòi "Đông Chu" và "Xuân Thu chiến quốíc". Vì vậy,

ngay từ buổi đầu dựng nước, dân tộc ta đã luôn bị

người Tàu sang xâm lược, cai trị.

Nưốc ta, từ thòi Hồng Bàng đã có tên là Văn

Lang. Đến thòi An Dương Vương có tên là Âu lạc. Nhà

Tần sang xầm lược, đổi tên là Tượng Quận. Khi nhà

Hán lên ngôi, chia nước ta làm 3 quận là Giao Chỉ,

Cửu Chận và Nhật Nam. Cuôì đòi Đông Hán lại đổi

nưốc ta là Giao Châu. Còn nhà Đường lại đặt là An

Nam Đô hộ phủ.

Tóm lại, tất cả các triều đại phương Bắc của người

Tàu đều muôn biến nước ta thành một bộ phận của đất

nước họ. Xứ Giao Châu bị người Tàu cai trị trên một

ngàn nám, vối ý đồ đó. Tất nhiên cuộc sông tinh thần,

15

vật chất và những sinh hoạt của người bản xứ sẽ bị ảnh

hưởng, thay đổi, khác trước kia rất nhiều thứ, về mọi

mặt cuộc sông cũng như phong tục, tập quán của dân

tộc. Hđn nữa, chính sách cai trị, chính trị rất hà khắc,

sự bóc lột đến tàn bạo của bọn quan lại người Tàu cũng

làm dân ta khổ cực và thay đổi nhiều về mọi mặt.

Thuở đó, bọn cai trị người Tàu đặt mỗi quận một

quan Thái Thú để trông coi, cai trị. Lại đặt quan Thứ

sử để giám sát (đều là người Tàu). Bên dưối lại có Lạc

hầu, Lạc tướng trực tiếp cai quản (chúng cũng dùng

một sô" người bản xứ) và đưỢc thế tập, để thay chúng

trực tiếp cai trị các bộ lạc. Họ không có thực quyền. Các

Lạc hầu, Lạc tướng phải chịu sự thôi thúc cai quản, bị

sử dụng làm tay sai, làm công cụ cho chúng mà thôi.

Chúng bắt nhân dân lặn xuông biển mò ngọc trai, san

hô, châu báu, lên rừng tìm gỗ quý, sừng tê, ngà voi và

hương liệu quý hiếm. Không những chúng vơ vét đồ

công nạp hàng năm cho triều đình phong kiến phương

Bắc mà còn để làm của riêng cho bản thân chúng nữa.

Pháp chế của người Tàu quá hà khắc, có nhiều loại

hình phạt: đánh bằng roi da, chặt chân tay, gọt đầu,

khắc chữ, bêu đầu hoặc lưu đầy v.v...

Chúng còn bắt nhân dân Âu Lạc thi hành theo các

lễ nghi, phép tắc của phong kiến, tập tục của người

Tàu: đàn ông phải cắt tóc ngắn, đàn bà cạo răng trắng

v.v... Phải theo lễ nghi phong kiến, đàn ông phải giữ

đạo "Quân thần phụ tử", phụ nữ phải theo "Tam tòng

tứ đức...". Nam nữ "Thụ thụ bất thân". Ma chay, cưối

16

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!