Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giới thiệu công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 2 −
Kỷ niệm 30 năm Việt Nam gia nhập ICCPR
(1982 - 2012)
− 3 −
KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUYỀN
CON NGƯỜI & QUYỀN CÔNG DÂN
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ CÁC
QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ
(ICCPR, 1966)
(Tài liệu tham khảo)
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
HÀ NỘI – 2012
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 4 − − 5 −
MỤC LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁCH ................................................................................................ 9
LỜI GIỚI THIỆU ........................................................................................................................ 13
Chương I: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ICCPR .............................. 19
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ..........................................................................................................19
1.1 Nền tảng lịch sử và tư tưởng của các quyền dân sự và chính trị .................................. 19
1.2. Đặc điểm của các quyền dân sự và chính trị............................................................... 28
1.3 Sự ra đời của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966) .......... 32
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ICCPR ................................................................................. 39
2.1. Khái quát .................................................................................................................. 39
2.2. Hai Nghị định thư bổ sung ........................................................................................ 44
2.3. Giới hạn và tạm đình chỉ thực hiện quyền ................................................................. 46
2.4. Tham gia, bảo lưu và tuyên bố .................................................................................. 52
2.5. Giải thích ICCPR......................................................................................................... 58
3. TÌNH HÌNH THAM GIA ICCPR VÀ HAI NGHỊ ĐỊNH THƯ ........................................................... 62
3.1.Tình hình trên thế giới ............................................................................................... 62
3.2. Việt Nam................................................................................................................... 65
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 6 −
Chương II: CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG ICCPR.................................................... 71
1. Quyền tự quyết (Right of Self-determination) (Điều 1) ....................................................... 74
2. Quyền sống (Right to Life) (Điều 6) ..................................................................................... 82
3. Quyền không bị tra tấn và quyền được đối xử nhân đạo
(Freedom from Torture and Rights to Humane Treatment) (Điều 7 và 10)........................ 107
4. Quyền tự do không bị làm nô lệ hay nô dịch
(Freedom from Slavery and Servitude) (Điều 8)................................................................ 140
5. Quyền tự do và an toàn cá nhân (Liberty and Security of Person) (Điều 9) ........................ 150
6. Quyền tự do đi lại và cư trú (Freedom of Movement and Residence) (Điều 12)................. 175
7. Quyền về thủ tục khi trục xuất người nước ngoài
(Procedural Rights Against Expulsion) (Điều 13)............................................................... 191
8. Quyền về xét xử công bằng (Right to a Fair Trial) (Điều 14)............................................... 200
9. Quyền không bị bỏ tù vì không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng và không bị áp dụng luật hồi
tố (Freedom from Imprisonment for Inability to Fulfil a Contract, and Prohibition of
Retroative Criminal Laws) (Điều 11 và Điều 15) ................................................................ 248
10. Quyền được thừa nhận là thể nhân trước pháp luật
(Right to Recognition as a Person before the Law) (Điều 16)............................................ 252
11. Quyền được bảo vệ sự riêng tư (Right to Privacy) (Điều 17)............................................. 255
12. Quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo
(Freedom of Thought, Conscience, and Religion) (Điều 18) .............................................. 273
13. Quyền tự do biểu đạt (Freedom of Expression) (Điều 19 và Điều 20) ............................... 306
14. Quyền tự do hội họp và lập hội (Freedom of Assembly Association) (Điều 21 và Điều 22) 356
15. Bảo vệ gia đình (Protection of the Family) (Điều 23)....................................................... 383
17. Quyền tham gia chính trị (Right of Political Participation) (Điều 25)............................... 411
18. Quyền không bị phân biệt đối xử (Rights of Non-discrimination) (Điều 2 (1), 3 và 26) .... 423
19. Quyền của người thiểu số (Rights of Minorities) (Điều 27) .............................................. 442
Các chữ viết tắt
− 7 −
Chương III: ỦY BAN NHÂN QUYỀN (HRC) VỚI VIỆC GIÁM SÁT THỰC THI ICCPR ........................ 451
1. Khái quát .......................................................................................................................... 451
2. Cơ cấu, thẩm quyền và kỳ họp của Ủy ban Nhân quyền..................................................... 453
3. Xem xét báo cáo định kỳ của các quốc gia thành viên ....................................................... 460
4. Banh hành các Bình luận chung ........................................................................................ 475
5. Xem xét khiếu nại cá nhân ................................................................................................ 476
6. Một số hình thức hoạt động khác...................................................................................... 487
7. Những thách thức và tương lai của Ủy ban........................................................................ 489
PHỤ LỤC
CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ, 1966 ........................................... 494
NGHỊ ĐỊNH THƯ KHÔNG BẮT BUỘC THỨ NHẤT BỔ SUNG CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ
VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ, 1966 .......................................................................... 532
NGHỊ ĐỊNH THƯ KHÔNG BẮT BUỘC THỨ HAI BỔ SUNG CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ CÁC QUYỀN DÂN
SỰ VÀ CHÍNH TRỊ, VỀ VIỆC BÃI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH, 1989 ................................................ 540
CÁC QUY TẮC THỦ TỤC CỦA ỦY BAN NHÂN QUYỀN................................................................. 546
CÁC NGUYÊN TẮC SIRACUSA VỀ GIỚI HẠN VÀ ĐÌNH CHỈ CÁC ĐIỀU KHOẢN
TRONG CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ, 1984 ........................... 591
BÌNH LUẬN CHUNG SỐ 34 CỦA ỦY BAN NHÂN QUYỀN............................................................ 616
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH ................................................................................................. 670
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 8 −
MỤC MỤC
Các chữ viết tắt
− 9 −
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁCH
Chữ viết tắt Tên đầy đủ
AI Tổ chức Ân xá quốc tế (Amnesty International)
BLC Bình luận chung (của HRC)
CAT Ủy ban chống tra tấn (Committee Against Torture);
Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và
đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác
(Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman
or Degrading Treatment or Punishment)
CEDAW Ủy ban về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ (Committee on the Elimination of All
Forms of Discrimination against Women)
CERD Ủy ban giám sát Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả
các hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc
(Committee on the Elimination of All Forms of Racial
Discrimination)
CIDT Đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo và hạ
thấp nhân phẩm (Cruel, inhumane, and degrading
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 10 −
treatment)
CRC Công ước về quyền trẻ em (Convention on the
Rights of the Child)
ECHR Tòa án Nhân quyền châu Âu (European Court of
Human Rights)
ECOSOC Hội đồng kinh tế - xã hội Liên Hợp Quốc (Economic
and Social Council)
HRBA Tiếp cận dựa trên quyền con người (Human Rights
Based Approach)
HRC Ủy ban Nhân quyền (Human Rights Committee)
HRW Tổ chức Giám sát nhân quyền (Human Rights
Watch)
ICC Tòa án Hình sự quốc tế (International Criminal
Court)
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị,
1966 (International Covenant on Civil and Political
Rights)
ICERD Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử về chủng tộc, 1965 (International
Convention on the Elimination of All Forms of Racial
Discrimination)
ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa, 1966 (International Covenant on
Economic, Social and Cultural Rights)
ICJ Tòa án Công lý quốc tế (International Court of
Justice)
Các chữ viết tắt
− 11 −
ICPPED Công ước quốc tế về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị
mất tích cưỡng bức, 2006 (International Convention
for the Protection of All Persons from Enforced
Disappearance)
ICRPD Công ước Quốc tế về quyền của người khuyết tật,
2006 (International Convention on the Rights of
Persons with Disabilities)
ILO Tổ chức Lao động quốc tế (International Labour
Organization)
MWC Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả người
lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ,
1990 (International Convention on the Protection of
the Rights of All Migrant Workers and Members of
Their Families)
OHCHR Văn phòng Cao ủy nhân quyền Liên Hợp Quốc
(Office of the High Commissioner for Human Rights)
OP Nghị định thư tùy chọn (Optional Protocol)
UDHR Tuyên ngôn Thế giới về Quyền con người, 1948
(Universal Declaration of Human Rights)
UNDP Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (United
Nations Development Programme)
UNESCO Tổ chức Giáo dục, khoa học và Văn hóa Liên Hợp
Quốc (the United Nations Educational, Scientific and
Cultural Organization)
UNHCR Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tỵ nạn
(The Office of the United Nations High
Commissioner for Refugees)
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 12 −
UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (United Nations
Children's Fund)
UNIFEM Quỹ phát triển phụ nữ của Liên Hợp Quốc (United
Nations Development Fund for Women)
UPR Cơ chế đánh giá nhân quyền định kỳ toàn thể
(Universal Periodic Review)
WGAD Nhóm công tác về giam giữ tùy tiện (Working Group
on Arbitrary Detention)
WHO Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)
Lời giới thiệu
− 13 −
LỜI GIỚI THIỆU
ông ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(International Covenant on Civil and Political Rights,
viết tắt là ICCPR, được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông
qua năm 1966), là điều ước quốc tế quan trọng nhất bảo vệ
và thúc đẩy các quyền dân sự và chính trị của mọi cá nhân
trong cộng đồng nhân loại. Công ước này, cùng với Tuyên
ngôn toàn thế giới về nhân quyền (1948, viết tắt là UDHR) và
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
(1966, viết tắt là ICESCR) hợp thành một “bộ luật nhân
quyền quốc tế”. Đến nay đã có hai Nghị định thư bổ sung
cho ICCPR liên quan đến giải quyết khiếu nại cá nhân và
bãi bỏ hình phạt tử hình.
Năm 2012 đánh dấu một mốc quan trọng 30 năm Việt
Nam trở thành thành viên của ICCPR (Việt Nam gia nhập
Công ước này vào ngày 24/9/1982). Từ khi tham gia công
ước này, Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể
để bảo đảm các quyền dân sự và chính trị cơ bản trong
C
GI
ỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN S
Ự & CHÍNH TRỊ
− 14
−
ICCPR được tôn trọng và thực thi trong thực tiễn. Tuy
nhiên, do một số yếu tố khách quan và chủ quan, đặc biệt
do hiểu biết về các chuẩn mực và cơ chế quốc tế bảo đảm
còn giới hạn, việc thực thi ICCPR ở nước ta vẫn còn những
tồn tại, hạn chế.
Liên quan đến ICCPR, từ trước đến nay đã có một số
công trình nghiên cứu về công ước này xuất bản ở Việt
Nam, trong đó tiêu biểu như hai cuốn: Một số vấn đề về
quyền dân sự và chính trị và Tuyên ngôn thế giới và hai Công
ước 1966 về quyền con người của Viện nghiên cứu quyền con
người Học viện CTQG Hồ Chí Minh xuất bản những năm
1997 và 2002, cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn của
nhóm quyền dân sự, chính trị của Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam xuất bản năm 2011...
Những công trình nêu trên chứa đựng khá nhiều thông
tin về ICCPR, tuy nhiên vẫn còn những giới hạn nhất
định về độ sâu phân tích nội dung của công ước cũng như
cơ chế bảo đảm thực thi nó. Vì vậy, Trung tâm Nghiên
cứu Quyền con người – Quyền công dân thuộc Khoa Luật
ĐHQG Hà Nội quyết định tổ chức biên soạn và xuất bản
cuốn sách này nhằm cung cấp thêm một nguồn tài liệu
tham khảo cho việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện
ICCPR ở Việt Nam.
Trong quá trình biên soạn cuốn sách này, chúng tôi đã
tham khảo một số sách chuyên khảo về ICCPR của một số
Lời giới thiệu
− 15
−
chuyên gia nước ngoài, trong đó đặc biệt là cuốn Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị: vụ việc, tư liệu và
bình luận (“The International Convenant on Civil and
Political Rights: Cases, Materials and Commentary”) của
nhóm tác giả bao gồm Sarah Joseph, Jenny Schults và
Melissa Castan (NXB Đại học Oxford, Second Edition,
2004) và cuốn Công ước Liên Hợp Quốc về các quyền dân sự
và chính trị - Bình luận ICCPR (“U. N Covenant on Civil and
Political Rights – ICCPR Commentary”) của Manfred
Nowak (NXB N. P. Engel, tái bản lần thứ hai, có sửa chữa,
bổ sung, 2005). Nếu như công trình của M. Nowak bình
luận từng điều khoản của ICCPR và hai Nghị định thư bổ
sung kèm theo phụ lục rất chi tiết, thì công trình của nhóm
tác giả Sarah Joseph, Jenny Schults và Melissa Castan lại
xen kẽ trích dẫn các vụ việc, bình luận chung khi phân tích
các điều khoản của công ước. Chính vì vậy, cách trình bày
của nhóm tác giả này được chúng tôi tham khảo nhiều hơn
trong cuốn sách.
Ngoài ra, khi phân tích nội hàm của các quyền dân sự và
chính trị, chúng tôi còn sử dụng các nguồn khác bao gồm
các Bình luận chung (General Comments) của Ủy ban nhân
quyền (Human Rights Committee, viết tắt là HRC) - cơ quan
giám sát thực thi ICCPR1 và các quan điểm (Views, còn
1 Các bình luận chung này (tính đến nay đã bao gồm 34 bản) hầu hết đã
được dịch sang tiếng Việt và tập hợp trong cuốn “Quyền con người:
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 16 −
được gọi là phán quyết, quyết định) của HRC khi giải quyết
các khiếu nại cá nhân về các quyền dân sự, chính trị. Cuối
cùng, ngoài các loại nguồn đã nêu, một số văn kiện quốc tế
khác về nhân quyền (các công ước, tuyên bố, nghị quyết... )
của các cơ quan Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác
cũng được chúng tôi tham khảo và sử dụng để phân tích
trong quá trình biên soạn sách.
Để bạn đọc tiện theo dõi và tham khảo, sách có phần
Phụ lục bao gồm một số văn kiện pháp lý cơ bản liên quan
(ICCPR, hai Nghị định thư của công ước, Các quy tắc thủ
tục hoạt động của HRC...), Bình luận chung số 34 của
HRC2 và danh sách các thành viên ICCPR và hai nghị định
thư của Công ước.
Như đã đề cập, ICCPR là điều ước quốc tế cơ bản, quan
trọng nhất về nhóm quyền dân sự, chính trị; vì vậy, chỉ trong
một cuốn sách, khó có thể phân tích đầy đủ tất cả nội dung
rộng lớn của Công ước. Do giới hạn về nguồn lực và thời
gian, cuốn sách này không tránh khỏi những hạn chế, sai
sót. Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp
chân tình của bạn đọc để có thể hoàn thiện ấn phẩm này
Tập hợp những bình luận / khuyến nghị chung của các ủy ban công ước
Liên Hợp Quốc” của Khoa Luật ĐHQG Hà Nội ( Nxb Công an Nhân
dân, 2010).
2 Mới được HRC thông qua vào năm 2011, chưa có trong cuốn Tập hợp
nêu trên.
Lời giới thiệu
− 17 −
trong những lần tái bản sau. Mọi góp ý vui lòng gửi về địa
chỉ: [email protected].
Hà Nội, tháng 3 năm 2012
KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU QUYỀN
CON NGƯỜI – QUYỀN CÔNG DÂN
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 18 −
Trang trang
Lịch sử hình thành và những nội dung cơ bản của ICCPR
− 19 −
C hư ơn g I
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI
DUNG CƠ BẢN CỦA ICCPR
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1.1 Nền tảng lịch sử và tư tưởng của các quyền dân sự và chính trị
“Quyền con người” hay “nhân quyền” (human rights) là
một khái niệm tiến triển theo thời gian. Khái niệm này gắn
bó chặt chẽ với sự phát triển của tôn giáo, tư tưởng, tập quán
và pháp luật trong các giai đoạn lịch sử của nhân loại.
Cho dù về sau này, người ta thường xếp chung các quyền
dân sự và chính trị thuộc cùng một nhóm và gọi là “thế hệ
quyền con người thứ nhất” (trong tương quan với “thế hệ thứ
hai” là các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa), các quyền chính
trị (quyền hội họp, lập hội, bầu cử, ứng cử, tham gia đời sống
chính trị…) trên thực tế ra đời chậm hơn nhiều so với các
quyền dân sự. Trong khi những bộ luật đầu tiên của nhân
loại, ví dụ như Bộ luật Hammurabi (khoảng 1780 TCN), Bộ
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 20 −
luật của Cyrus Đại đế (khoảng 550 TCN), Bộ luật Ashoka
(khoảng 273 – 231)… đã đề cập đến việc bảo vệ các quyền
dân sự thì các quyền chính trị phải đợi đến sau cách mạng tư
sản mới được ghi nhận chính thức vào luật pháp.
Từ thời kỳ La Mã đến trước cách mạng tư sản, nhiều văn
kiện Đại Hiến chương Magna Carta (1215), Bộ luật về
quyền (1689) của nước Anh, Bộ luật Hồng Đức (Quốc
Triều Hình Luật (1470-1497) của Việt Nam… đã chứa đựng
nhiều quy định bảo vệ các quyền sống, quyền an toàn thân
thể, quyền tài sản, đồng thời có cả những quy định cụ thể về
quyền của một số nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ
em, người già... Các bộ luật này ít nhiều chịu ảnh hưởng của
tư tưởng nhân văn trong các học thuyết tôn giáo mà xuất
phát từ bảo vệ nhân phẩm của con người. Sau thời kỳ Trung
Cổ, thời kỳ Phục hưng và Khai sáng mở đường cho nhiều
học thuyết, tư tưởng tiến bộ về chính trị - xã hội ra đời hoặc
hồi sinh, phát triển đến tầm cao mới, trong đó có tư tưởng
về pháp luật tự nhiên và quyền tự nhiên. Những người theo
học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) cho rằng
quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá
nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành
viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó,
không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn
hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức,
cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể
nào, kể cả các nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các
Lịch sử hình thành và những nội dung cơ bản của ICCPR
− 21 −
quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân. Các triết
gia tiêu biểu theo khuynh hướng này có thể kể đến là
Thomas Hobbes (1588–1679), John Locke (1632-1704),
Francis Hutcheson (1694 – 1746), Thomas Paine (1731–
1809), John Stuart Mill (1806 – 1873)…
Cuốn sách Thủy quái (Leviathan, 1651) của Thomas
Hobbes (1588-1679) đã thiết lập nền tảng cho nền triết học
chính trị phương Tây theo quan điểm lý thuyết về khế ước
xã hội. Hobbes ủng hộ chính thể chuyên chế nhưng ông
cũng phát triển các nguyên tắc cơ bản của tư tưởng tự do
châu Âu như quyền được bầu cử của các cá nhân, quyền
bình đẳng tự nhiên của mọi người, quan điểm tất cả quyền
lực chính trị hợp pháp phải mang tính “đại diện” và dựa trên
sự đồng thuận của nhân dân... Ông cho rằng cuộc sống
trong trạng thái tự nhiên, trước khi có nhà nước và pháp
luật, là “đơn độc, nghèo khó, dã man và ngắn ngủi”. Thomas
Hobbes cho rằng quyền tự nhiên cốt yếu của con người là
“được sử dụng quyền lực của chính mình để bảo đảm cuộc
sống của bản thân mình, và do đó, được làm bất cứ điều gì
mà mình cho là đúng đắn và hợp lý…”
John Locke (1632 – 1704), nhà triết học người Anh, đã
phát triển thêm lý thuyết về quyền tự nhiên và về khế ước xã
hội. Qua các tác phẩm của mình, ông đấu tranh chống lại chủ
nghĩa chuyên chế và đóng góp lớn đối với chủ nghĩa tự do. Về
cá nhân, ông muốn con người dùng lý trí để đi tìm chân lý
thay vì chấp nhận ý kiến áp đặt hoặc sinh ra bởi niềm tin mù
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 22 −
quáng. Tác phẩm Hai chuyên luận về chính quyền (Two
Treatises of Government, 1689) của Locke đã bàn khá kỹ về
các quyền tự nhiên của con người, trong đó ông đặc biệt
quan tâm đến quyền sống, tự do và quyền tài sản. Locke cho
rằng các quyền tự nhiên này không thể bị hạn chế trong các
khế ước xã hội. Ông cũng cho rằng các chính phủ chẳng qua
chỉ là một dạng “khế ước xã hội” giữa những kẻ cai trị và
những người bị trị, trong đó những người bị trị (đa số công
dân) tự nguyện ký vào bản khế ước này với kỳ vọng và mong
muốn sử dụng chính phủ như là một phương tiện để bảo vệ
các “quyền tự nhiên” của họ chứ không phải để ban phát và
quy định các quyền cho họ. Từ cách tiếp cận đó, John Locke
cho rằng các chính phủ chỉ có thể “chính danh” hay “hợp
pháp” khi thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền
bẩm sinh, vốn có của công dân…
Thomas Hobbes (1588-1679) và John Locke (1632 – 1704),
hai nhà tư tưởng đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quan điểm
về các quyền tự nhiên của con người
Lịch sử hình thành và những nội dung cơ bản của ICCPR
− 23 −
Triết gia người gốc Ireland là người đầu tiên phân biệt
giữa các quyền con người mà nhà nước có thể hạn chế và
không thể hạn chế (tước đoạt) Francis Hutcheson.
Hutcheson, trong tác phẩm Nghiên cứu về nguồn gốc tư tưởng
của chúng ta về cái đẹp và đạo đức (Inquiry into the Original of
Our Ideas of Beauty and Virtue, 1725), đã nêu quan điểm về
các quyền không thể tước đoạt và quyền phản kháng nếu
những quyền đó bị xâm phạm. Ông cho rằng “Tại bất cứ nơi
nào mà có sự xâm phạm đến các quyền không thể tước đoạt
(unalienable rights), sẽ phải có quyền phản kháng lại (right
to resistance)…Các quyền không thể tước đoạt là các giới
hạn cần thiết đối với mọi chính quyền.” Tuy nhiên,
Hutcheson cũng nhận thức rõ về giới hạn đối với các quyền
không thể tước đoạt khi ông cho rằng “sẽ không có quyền
nào, hoặc giới hạn đối với quyền, mà không phù hợp hoặc
đối nghịch với lợi ích rộng lớn của cộng đồng”. Trong tác
phẩm Một hệ thống triết học đạo đức (A System of Moral
Philosophy, 1755), Hutcheson tiếp tục triển khai ý tưởng về
các quyền không thể tách rời của mình dựa trên nền tảng
nguyên tắc tự do lương tâm của thời kỳ Khai sáng. Ông
nhấn mạnh rằng quyền phán xét của mỗi cá nhân (private
judgment) cũng không thể bị ép buộc thay đổi bởi bất kỳ ai,
bởi bất kỳ khế ước hay lời tuyên thệ nào, cho nên nó cũng là
một quyền không thể tước đoạt.
Thomas Paine, người được cho là nhắc đến thuật ngữ
“nhân quyền” (“human rights”) đầu tiên (trong tác phẩm
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 24 −
Các quyền của con người - Rights of Man, 1791), nhấn mạnh
rằng các quyền không thể được ban phát bởi bất kỳ chính
phủ nào, bởi lẽ điều đó sẽ đồng thời cho phép các chính phủ
được rút lại các quyền ấy theo ý chí của họ… Như thế,
Thomas Paine đã gián tiếp khẳng định rằng các quyền của
con người là những giá trị tự nhiên.
Lý thuyết về quyền tự nhiên bị phê phán nặng nề bởi các
triết gia theo quan điểm luật thực chứng (luật do con người
đặt ra (positive law)), trái với luật tự nhiên (natural law), và đi
kèm với nó là quan niệm về quyền pháp lý (legal rights).
Quan điểm này cho rằng các quyền con người không phải là
những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các
nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm
pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy,
theo học thuyết về quyền pháp lý, ở góc phạm vi, giới hạn và
độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người
phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như
phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội. Ở
đây, trong khi các quyền tự nhiên có tính đồng nhất trong
mọi hoàn cảnh (universal), mọi thời điểm, thì các quyền pháp
lý mang tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hóa và
chính trị (culturally and politically relative). Hai học giả tiêu
biểu cho học thuyết này có thể kể là Edmund Burke (1729-
1797) và Jeremy Bentham (1748-1832). Edmund Burke,
trong tác phẩm Suy nghĩ về Cách mạng Pháp (Reflections on
the Revolution in France, 1770) và Jeremy Bentham, trong tác
Lịch sử hình thành và những nội dung cơ bản của ICCPR
− 25 −
phẩm Phê phán học thuyết về các quyền tự nhiên, không thể tước
bỏ (Critique of the Doctrine of Inalienable, Natural Rights,
1843) cùng cho rằng ý tưởng về các quyền tự nhiên là trừu
tượng và thiếu cơ sở. Bentham còn cho rằng quyền tự nhiên
là “vô nghĩa lửng lơ” (nonsense upon stilts) và chẳng có quyền
nào lại không thể tước bỏ (inalienable).
Những tư tưởng về quyền con người ở châu Âu thời kỳ
Khai sáng đã có ảnh hưởng quan trọng đến các cuộc cách
mạng nổ ra vào cuối thế kỷ XVIII. Đến lượt mình, hai cuộc
cách mạng tại Hoa Kỳ và Pháp đã có những tác động to lớn
vào sự phát triển của tư tưởng và quá trình lập pháp về
quyền con người không chỉ ở hai quốc gia này mà còn trên
toàn thế giới. Mười ba thuộc địa ở Bắc Mỹ sau khi tuyên bố
độc lập với đế chế Anh vào năm 1776 đã thông qua Tuyên
ngôn độc lập, trong đó khẳng định “Mọi người sinh ra đều
bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Mười ba
năm sau đó (1789), nhân dân Pháp, mà chủ yếu là thợ
thuyền, trí thức và một số thị dân, đã đứng lên lật đổ chế độ
phong kiến, thành lập nền cộng hoà đầu tiên và công bố bản
Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền. Điều 1 bản
Tuyên ngôn này khẳng định: “Người ta sinh ra và sống tự do
và bình đẳng về các quyền...” Không dừng lại ở những
nguyên tắc như Tuyên ngôn Độc lập 1776 của Mỹ, Tuyên
ngôn 1789 của người Pháp đã xác định một loạt quyền cơ
GI
ỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN S
Ự & CHÍNH TRỊ
− 26
−
bản của con người như quyền tự do và bình đẳng, quyền sở
hữu, quyền được bảo đảm an ninh và chống áp bức, quyền
bình đẳng trước pháp luật, quyền không bị bắt giữ trái phép,
quyền được coi là vô tội cho đến khi bị chứng minh là phạm
tội, quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, quyền tự do
ngôn luận, quyền tham gia ý kiến vào công việc nhà nước...,
đồng thời đề cập đến những biện pháp cụ thể nhằm bảo
đảm thực hiện các quyền này. 3
Quyền con người thực sự nổi lên như một vấn đề ở tầm
quốc tế từ những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với cuộc
đấu tranh nhằm xoá bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ diễn
ra rất mạnh mẽ và liên tục tới tận cuối thế kỷ đó và phong
trào đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sống cho người lao
động và bảo vệ nạn nhân trong các cuộc xung đột vũ trang
trên thế giới. Đến những năm đầu của thế kỷ XX, Hội Quốc
Liên và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) được thành lập đã
nâng nhận thức và các hoạt động về quyền con người thêm
một bước lớn. Cùng với cuộc Cách mạng Nga năm 1917 và
sự hình thành, phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa trong những thập kỷ 1940 đến 1980 của thế kỷ trước,
các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được đề cao, và đặc biệt,
các quyền độc lập và tự quyết của các dân tộc được cổ vũ.
3 Xem hai bản tuyên ngôn này trong sách Tư tưởng về quyền con người –
Tuyển tập tư liệu thế giới và Việt Nam, Nxb Lao động – Xã hội, 2011,
tr.118.
Lịch sử hình thành và những nội dung cơ bản của ICCPR
− 27
−
Đây là những quyền con người mà trước đó đã không hoặc
ít được đề cập trên các diễn đàn quốc tế, nay tồn tại gần như
song song, ngang hàng với các quyền dân sự và chính trị.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, việc Liên Hợp Quốc ra
đời vào ngày 10 tháng 12 năm 1948 và thông qua bản
Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (Universal
Declaration of Human Rights - UDHR) là một bước tiến mới
khẳng định các quyền phổ quát cho toàn thể nhân loại. Bản
Tuyên ngôn này, trong khi phản ánh sự đa dạng của các nền
tảng tư tưởng, văn hóa và lịch sử, ghi nhận trang trọng lần
đầu tiên các quyền dân sự và chính trị cơ bản, bên cạnh các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, cho mọi cá nhân trong
cộng đồng nhân loại. Bản Tuyên ngôn, với 30 điều khoản,
cũng chính là nền tảng cho hai công ước quốc tế về quyền
con người cùng được thông qua vào năm 1966, bao gồm
Công ước về các quyền dân sự, chính trị (International
Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR).
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, đặc biệt là sau Hội
nghị nhân quyền thế giới tại Viên (Áo) năm 1993, khuynh
hướng phân chia giữa hai nhóm quyền (dân sự, chính trị và
kinh tế, xã hội, văn hóa) giảm dần, quan điểm nhấn mạnh
cực đoan các quyền dân sự và chính trị của các nước phương
Tây cũng nhẹ bớt. Tuyên bố Viên 1993 đã liên kết các vấn
đề dân chủ, quyền con người và phát triển bền vững, cũng
như nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền con
người trên mọi lĩnh vực. Cùng thời gian này, với sự nổi lên
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 28 −
của các tổ chức phát triển, những khái niệm mới như tính
minh bạch, trách nhiệm giải trình... được phổ biến rộng rãi
đã giúp hình thành cách tiếp cận dựa trên quyền con người
(human rights based approach – HRBA) đối với phát triển.
Hai lĩnh vực quyền con người và phát triển bền vững càng
ngày càng được kéo xích lại gần nhau hơn. Nếu như trước
đây, các tổ chức phi chính phủ quốc tế như Giám sát nhân
quyền (Human Rights Watch - HRW) hay Ân xá quốc tế
(Amnesty International – AI) chủ yếu quan tâm đến các
quyền dân sự và chính trị thì hiện nay đã mở dần đến các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Mặc dù vậy, nhiều tổ chức
phi chính phủ quốc tế khác và chính phủ của một số quốc
gia khi soạn báo cáo thường niên về tình hình nhân quyền
của các nước trên thế giới hay trên các diễn đàn quốc tế vẫn
thường chỉ tập trung vào các quyền dân sự và chính trị.4
1.2. Đặc điểm của các quyền dân sự và chính trị
Theo các lĩnh vực của đời sống nhân loại, quyền con
người thường được phân thành hai nhóm chính là các
quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.
4 Xem thêm báo cáo của Bộ Ngoại giao Anh (FCO) về "Nhân quyền và
dân chủ năm 2011" (công bố tháng 4/2012, đề cập đến tình hình tại 28
quốc gia "đáng quan tâm"):
http://fcohrdreport.readandcomment.com; báo cáo của Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ:
http://www.state.gov/j/drl/rls/hrrpt/humanrightsreport/index.htm;
Lịch sử hình thành và những nội dung cơ bản của ICCPR
− 29 −
Đây cũng là cách phân chia được sử dụng khi soạn thảo
hai công ước quốc tế cơ bản về quyền con người của Liên
Hợp Quốc năm 1966. Người ta cũng có thể chia ra thành
năm nhóm nhỏ hơn, gồm các quyền dân sự, chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hóa. Ở mức độ nhất định, cách phân
loại các quyền con người thành hai nhóm quyền dân sự,
chính trị và kinh tế, xã hội, văn hóa xuất phát từ nhận thức
cho rằng có sự khác nhau về đặc điểm và những yêu cầu
trong bảo đảm hai nhóm quyền này. Cụ thể, các quyền
dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, cho
đến gần đây, thường được xem là có những đặc tính trái
ngược nhau như sau: 5
Các quyền dân sự và chính trị Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
Chủ yếu chỉ cần thái độ thụ động
(negative) của nhà nước: Nhà nước,
trong hầu hết các trường hợp, không
cần chủ động thực hiện các biện pháp
hỗ trợ mà chỉ đơn thuần là kiềm chế
không can thiệp vào việc hưởng thụ
các quyền dân sự, chính trị của
người dân.
Đòi hỏi sự chủ động (positive) thực hiện
của nhà nước: Nhà nước phải chủ động
thực hiện các biện pháp để hỗ trợ người
dân, chứ không chỉ đơn thuần là kiềm chế
không can thiệp vào việc hưởng thụ các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của họ.
Không tốn nhiều nguồn lực (costfree): Việc bảo đảm các quyền này Tốn nhiều nguồn lực (resource-intensive): Việc bảo đảm các quyền này đòi hỏi
5 Xem Scott, C. (1989). "The Interdependence and Permeability of
Human Rights Norms: Towards a Partial Fusion of the International
Covenants on Human Rights". Osgood Law Journal, Vol. 27.
GIỚI THIỆU CÔNG ƯỚC VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ & CHÍNH TRỊ
− 30 −
không đòi hỏi phải tiêu tốn nhiều
nguồn lực nên quốc gia nào cũng có
thể làm được.
những nguồn nhân, vật lực lớn mà không
phải quốc gia nào cũng có thể đáp ứng
ngay, đặc biệt là các quốc gia nghèo.
Cần thực hiện ngay (immediate):
Do việc bảo đảm quyền này không
đòi hỏi tiêu tốn nhiều nhân, vật lực,
nên các quốc gia có thể và cần phải
thực hiện ngay.
Có thể thực hiện dần dần (progressive): Do
việc bảo đảm quyền này đòi hỏi nhiều
nguồn nhân, vật lực, nên các quốc gia có
thể thực hiện dần dần, từng bước, tùy
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của
nước mình.
Nội hàm rõ ràng (precise): Thể hiện
ở dễ dàng định lượng, đánh giá
được mức độ bảo đảm các quyền.
Nội hàm mơ hồ, không rõ ràng (vague):
Thể hiện ở việc khó định lượng, đánh giá
được mức độ bảo đảm các quyền cũng
như sự tương thích giữa những kết quả
đạt được và nguồn lực sẵn có của
quốc gia.
Có thể phân định đúng sai
(justiciable): Thể hiện ở việc các tòa
án có thể phân xử các cáo buộc về
sự vi phạm các quyền này (do nội
hàm của các quyền rõ ràng).
Không thể phân định đúng sai (nonjusticiable): Thể hiện ở việc các tòa án
khó có thể phân xử các cáo buộc về sự vi
phạm các quyền này (do nội hàm của các
quyền không rõ ràng).
Không phản ánh sự chia rẽ về ý thức
hệ chính trị (non-ideological/nonpolitical): Thể hiện ở việc không có
sự mâu thuẫn lớn về quan điểm giữa
các quốc gia trên thế giới về các
quyền này.6
Phản ánh sự chia rẽ về ý thức hệ chính trị
(ideologically divisive/political): Thể hiện ở
việc không có sự thống nhất về quan
điểm giữa các quốc gia trên thế giới (đặc
biệt giữa hai khối xã hội chủ nghĩa và tư
bản chủ nghĩa trong thời kỳ Chiến tranh
6 Ngoại trừ một số quyền như quyền sở hữu tư nhân về tài sản, quyền phát
triển…
Lịch sử hình thành và những nội dung cơ bản của ICCPR
− 31 −
Lạnh) về tính hiện thực và hợp lý của các
quyền này.
Mang dấu ấn của khối tư bản chủ
nghĩa (capitalist): Đây là nhóm
quyền được cổ vũ mạnh mẽ bởi khối
các nước tư bản chủ nghĩa trong thời
kỳ Chiến tranh Lạnh.
Mang dấu ấn của khối xã hội chủ nghĩa
(socialist): Đây là nhóm quyền được đề
xướng và cổ vũ mạnh mẽ bởi khối các
nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ Chiến
tranh Lạnh.
Tuy nhiên, sự phân biệt ở trên chỉ mang tính tương đối
và có một số nhận định (đặc biệt là về các quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa) không còn phù hợp.7 Quan niệm truyền thống
cho rằng các quyền dân sự và chính trị chỉ cần thái độ thụ
động (negative) của nhà nước đến nay cũng không còn
thích hợp. Bởi lẽ, bên cạnh nghĩa vụ chủ yếu là kiềm chế,
không can thiệp của nhà nước vào việc hưởng thụ các quyền
dân sự và chính trị của cá nhân (thụ động), các nhà nước
trong nhiều trường hợp còn phải thực hiện các nghĩa vụ chủ
động (positive) để bảo đảm hiện thực hóa các quyền này.
Chẳng hạn, các quốc gia cần chủ động ban hành các quy
7 Liên quan đến tính mơ hồ và không thể phân định đúng sai của các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa (cơ quan giám sát Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa - ICESCR) đã đưa ra khái niệm về những nghĩa vụ cơ bản tối
thiểu minimum core obligations làm tiêu chí đánh giá việc thực thi nghĩa
vụ của các quốc gia thành viên Công ước này. Khái niệm các nghĩa vụ
cơ bản tối thiểu sau đó được cụ thể hóa trong văn kiện có tên gọi là Các
nguyên tắc Limburg (Limburg Principles). Xem cụ thể trong sách Giới
thiệu Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR,
1966), Nghiêm Kim Hoa và Vũ Công Giao, Nxb Hồng Đức, 2012.