Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giáo trình trồng rừng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ThS. MAI QUANG TRƯỜNG - ThS. LƯƠNG THỊ ANH
Giáo trình
TRỒNG RỪNG
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI - 2007
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trồng rừng là công việc quan trọng bậc nhất hiện nay trong ngành lâm nghiệp.
Trồng rừng chính là công việc tái sản xuất nhằm làm cho vốn rừng được duy trì và
phát triển, bảo vệ môi trường sống.
Nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên các trường đại học và cao đẳng
chuyên ngành lâm nghiệp, thuộc khu vực trung du miền núi phía bắc. Dựa theo mục
tiêu đào tạo mới đã được bộ giáo dục phê duyệt và chương trình đã được thông qua.
Được sự phân công của bộ môn nhóm biên soạn chúng tôi gồm:
ThS. Mai Quang Trường viết:
- Chương 1: Bài mở đầu
- Chương 3: Kỹ thuật sản xuất cây con
- Chương 4: Kỹ thuật trồng rừng
- Chương 5: Kỹ thuật trồng rừng thâm canh và thâm canh rừng trồng
THS. Lương Thị Anh viết:
- Chương 2: Kỹ thuật sản xuất hạt giống cây rừng
- Chương 6: Kỹ thuật gây trồng một số loài cây lâm nghiệp
Trong quá trình biên soạn chúng tôi đã được sự giúp đỡ của các đồng chí lãnh
đạo nhà trường, các bạn đồng nghiệp trong và ngoài trường, mặc dù đã có nhiều cố
gắng, song khó tránh khỏi những thiếu sót về nhiều mặt, chúng tôi rất mong nhận
được những ý kiến nhận xét của bạn đọc để gzáo trình này được hoàn thiện hơn.
Chủ biên
Mai Quang Trường
3
Chương I
BÀI MỞ ĐẦU
1.1. THỰC TRẠNG TÀI NGUYÊN RỪNG VIỆT NAM
Vốn được mệnh danh là "lá phổi" của trái đất, rừng có vai trò rất quan trọng trong
việc duy trì cân bằng sinh thái và sự đa dạng sinh học trên hành tinh chúng ta. Bởi vậy,
bảo vệ rừng và nguồn tài nguyên rừng luôn trở thành một nội dung, một yêu cầu không
thể trì hoãn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới trong cuộc chiến đầy gian khó hiện
nay nhằm bảo vệ môi trường sống đang bị huỷ hoại ở mức báo động mà nguyên nhân
chủ yếu là do chính hoạt động của con người gây ra.
Trên phạm vi toàn thế giới, chỉ tính riêng trong vòng 4 thập niên trở lại đây, 50%
diện tích rừng đã bị biến mất do nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo tính toán của các
chuyên gia của Tổ chức nông - lương thế giới (FAO) thì hàng năm có tới 11,5 triệu
hecta rừng bị chặt phá và bị hoả hoạn thiêu trụi trên toàn cầu, trong khi diện tích rừng
trồng mới chỉ vỏn vẹn 1,5 triệu hecta. Rừng nguyên sinh bị tàn phá, đất đai bị xói mòn
dẫn tới tình trạng sa mạc hoá ngày càng gia tăng. Nhiều loài động - thực vật, lâm sản
quý bị biến mất trong danh mục các loài quý hiếm, số còn lại đang phải đối mặt với
nguy cơ dần dần bị tuyệt chủng. Nghiêm trọng hơn, diện tích rừng thu hẹp trên quy mô
lớn đã làm tổn thương "lá phổi" của tự /thiên, khiến bầu khí quyển bị ô nhiễm nặng,
mất cân bằng, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người và đời sống động, thực vật.v.v...
Tàn phá rừng là mối đe doạ đối với cuộc sống của 30 triệu người Việt Nam hiện sống
trong cảnh nghèo khó vì họ thường xuyên phụ thuộc vào rừng để kiếm thức ăn, thu
nhập và nhiên liệu. Một trong các giải pháp là khuyến khích tái trồng rừng, tuy nhiên
các cộng đồng địa phương sẽ không muốn đầu tu tiền của vào hoạt động này nếu
quyền sở hữu đất của họ không được đảm bảo. Phần lớn rừng tại Việt Nam hiện vẫn
thuộc sở hữu của nhà nước, do vậy người dân địa phương không được đảm bảo chắc
chắn rằng việc đầu tu của họ sẽ mang lại lợi ích lâu dài.
Là một quốc gia đất hẹp người đông, Việt Nam hiện nay có chỉ tiêu rừng vào loại
thấp, chỉ đạt mức bình quân khoảng 0,14 ha rừng/người, trong khi mức bình quân của
thế giới là 0,97 ha/người. Các số liệu thống kê cho thấy, đến năm 2000 nước ta có
khoảng gần 11 triệu hecta rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 9,4 triệu hecta
và khoảng 1,6 triệu hecta rừng trồng; Tuy nhiên, nhờ có những nỗ lực trong việc thực
hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng,
"phủ xanh đất trống đồi núi trọc" nên nhiều năm gần đây diện tích rừng ở nước ta đã
tăng 1,6 triệu hecta so với năm 1995, trong đó rừng tự nhiên tăng 1,2 triệu hecta, rừng
trồng tăng 0,4 triệu hecta.
Theo đánh giá của cục Lâm nghiệp, mặc dù ngành lâm nghiệp nước ta đã ngăn
4
chặn được sự suy thoái diện tích rừng, đưa độ che phủ hàng năm tăng khoảng 1%, với
độ che phủ toàn quốc hiện nay là trên 36,7%, những ngành lâm nghiệp mới chỉ đóng
góp khoảng 1% GDP quốc gia. Bên cạnh đó, năng suất rừng, lợi nhuận sản xuất lâm
nghiệp chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường và chưa khai thác hết tiềm lực; tác động
đến xóa đói, giảm nghèo hạn chế; năng lực của hệ thống các lâm trường quốc doanh
còn yếu. Ngoài ra, ngành lâm nghiệp đang đứng trước rất nhiều thách thức như: Nguy
cơ mất rừng do sức ép dân số tăng; nhu cầu lâm sản ngày càng tăng đang tạo ra sức ép
lên thương mại và môi trường; Xuất khẩu lâm sản bị cạnh tranh gay gắt trên thị trường
quốc tế; Đầu tư cho ngành hiện nay không đủ đảm bảo cho việc tăng tốc và phát triển
bền vững...
Công tác quản lý, quy hoạch tài nguyên rừng cũng có những chuyển động tích
cực.
Trên phạm vi cả nước đã và đang hình thành các vùng trồng rừng tập trung nhằm
cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Chẳng hạn, vùng Đông bắc và Trung du Bắc bộ đã
trồng 300 nghìn hecta rừng nguyên liệu công nghiệp, Bắc Trung bộ có 70 nghìn hecta
rừng thông. Ngoài ra, hơn 6 triệu hecta rừng phòng hộ và 2 triệu hecta rừng đặc dụng
được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh
học; Có tới 15 vườn quốc gia và hơn 50 khu bảo tồn thiên nhiên được xây dựng, quy
hoạch và quản lý Trong 10 năm qua, hàng năm giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt xấp xỉ 6
nghìn tỷ đồng, chiếm 5-7% giá trị sản lượng nông, lâm thuỷ sản.
Mặc dù có những kết quả tích cực trong quy hoạch, sản xuất cũng như trong bảo
vệ và phát triển nguồn tài nguyên rừng, song nhìn chung chất lượng rừng ở nước ta
hiện nay vẫn còn rất thấp, rừng nước ta đã ít mà trong đó có tới hơn 6 triệu hecta tung
nghèo kiệt, năng suất rừng trồng còn thấp. Đặc biệt, nguồn tài nguyên rừng nước ta
vẫn tiếp tục đứng trước những nguy cơ nghiêm trọng như bị huỷ hoại, suy thoái, giảm
sút và mất dần tính đa dạng sinh học của rừng. Hậu quả khôn lường của những vụ tàn
phá rừng trước đây và gần đây nhất là thảm họa cháy rừng U Minh (3/2002), đã khiến
cho gần 8 nghìn hecta rừng U Minh Thượng và U Minh Hạ bỗng chốc trở thành đống
tro tàn, đã thực sự là những lời cảnh báo nghiêm khắc đối với chúng ta trong "sứ
mệnh" bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng nói riêng và bảo vệ môi trường sống -
chiếc nôi dung dưỡng sự sống của con người - nói chung.
Thảm hoạ cháy rừng U Minh vừa qua càng đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với
công tác quy hoạch, sản xuất, quản lý, bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên rừng ở
nước ta hiện nay. Trước hết, cần khẩn trương đề ra những biện pháp tăng cường sự
quản lý nâng cao trách nhiệm của các cơ quan chức năng về quản lý - bảo vệ tài
nguyên rừng. Tinh thần trách nhiệm, ý thức cảnh giác cao và năng lực thực thi chức
trách của các cá nhân và cơ quan quản lý chuyên ngành là những yếu tố tối cần thiết
góp phần ngăn chặn những tai họa, bảo vệ nguồn tài nguyên rừng. Hơn nữa, trên thực
tế, các khu rừng hiện nay đều có sự phân công quản lý của các lâm, ngư trường và các
5
hạt kiểm lâm, những phần lớn các vụ cháy rừng từ trước đến nay đều chưa thể xác
định nguyên nhân rõ ràng và truy cứu trách nhiệm cụ thể. Những sự việc nêu trên cho
thấy những hạn chế và sự lơi lỏng trong công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát thường
xuyên cũng như tinh thần thiếu cảnh giác của các cá nhân và cơ quan hữu trách.
Thực tiễn ở U Minh cho thấy, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng cần phải được
tiếp cận và tiến hành gắn liền với các biện pháp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
để người dân có thể dựa được vào rừng để sống, nhưng cũng có biện pháp bảo vệ và
phát triển rừng có hiệu quả nhất" như tinh thần ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ thời gian gần đây. Quy hoạch, sản xuất, khai thác tài nguyên rừng phải đi đôi với
bảo vệ, bồi đắp tài nguyên rừng. Đối với những vùng rừng núi còn gặp nhiều khó khăn
về mọi mặt, cần có giải pháp chuyển đổi cơ cấu kinh tế thích hợp, giảm sức ép đối với
rừng từ các hoạt động khai thác thái quá có tính huỷ hoại. Có một vấn đề tồn tại lớn
nhất hiện nay.ở nước ta là tình trạng nghèo đói của cư dân vùng rừng núi và vùng cận
rừng. Cho đến nay, dân cư vùng lâm nghiệp đã tăng lên chiếm tới 1/3 tổng dân số của
nước ta. Trong số 2,8 triệu hộ nông dân nghèo ở nước ta thì hơn 80% sinh sống trong
các vùng rừng núi, cuộc sống hàng ngày của họ phải dựa vào rừng. Chẳng hạn, tại khu
rừng xã Chế Tạo (Mù Càng Chải - Yên Bái), nơi vừa phát hiện quần thể loài vượn đen
tuyền (Nomascus concolor) lớn nhất ở nước ta, các hoạt động khai thác rừng ở đây
đang là mối đe dọa đối với sự tồn tại của loài vượn quý hiếm này. Xã Chế Tạo có 192
hộ dân người Mông với 1438 nhân khẩu nhưng chỉ có 487,7 ha đất nông nghiệp, trong
đó 76,1 ha ruộng nước một vụ, người dân sống chủ yếu dựa vào nương rẫy. Hàng năm,
nhân dân xã Chế Tạo thiếu ăn khoảng 3 tháng, do vậy để có lương thực, họ đã phá
rừng làm rẫy khiến cho diện tích rừng nhiều năm qua bị thu hẹp, thêm vào đó là nạn
săn bắn, buôn bán thú rừng, vì vậy những loài thú quý hiếm, nhất là loài vượn đen
tuyền đang đứng trước nguy cơ tuyệt diệt. Rõ ràng là, việc bảo vệ tài nguyên rừng ở
đây chỉ thực sự có hiệu quả nếu có những biện pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn
trong đời sống người dân, kết hợp với công tác tuyên truyền giáo dục và xử lý nghiêm
những hành vi vi phạm Luật bảo vệ rừng.
Nói tóm lại, để bảo vệ, khai thác và phát triển tài nguyên rừng - món quà của sự
cấu thành chức năng tụ nhiên của thiên nhiên ban tăng - rất cần thiết phải hoàn chỉnh
và thực thi ngay một chiến lược đồng bộ, có tính khả thi về tài nguyên rừng. Song
hành với việc nâng cao nhận thức thông qua công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục
thiết thực, đòi hỏi phải có một khung khổ pháp lý cụ thể cho các khâu trong quy trình
bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng; Đồng thời cần phải đào tạo, bồi dưỡng và nâng
cao trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên trách đủ mạnh, có tinh thần trách đệm và khả
năng tác nghiệp cao, được.đầu tu thoả đáng và trang bị phương tiện kỹ thuật chuyên
ngành hiện đại Vấn đề có ý nghĩa mấu chốt trong việc thực hiện Chiến lược phát triển
lâm nghiệp giai đoạn 2001 - 2010 nhằm đạt được mục tiêu đề ra là nâng độ che phủ
của rừng ở nước ta lên 43%, bảo vệ tính đa dạng sinh học và tính ổn định, bền vững
của quá trình phát triển tài nguyên rừng thì nhất thiết phải đặt sự nghiệp bảo vệ, phát
6
triển tài nguyên rừng, bảo vệ môi trường sống là bộ phận cấu thành hữu cơ không thể
thiếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, của chiến lược công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước.
Trong đó, cần chú trọng hơn nữa đến đổi mới cơ chế chính sách nhằm chuyển
mạnh một cách hiệu quả ngành lâm nghiệp theo hướng lâm nghiệp xã hội - lâm nghiệp
cộng đồng, huy động được mọi nguồn lực và lực lượng xã hội tham gia quản lý, bảo vệ
rừng vì lợi ích trực tiếp của cộng đồng.
1.2. MỤC TIÊU VÀ CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỤING VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
Ngày 24/1 l/2005 tại Hà Nội, Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn) đã tổ chức Hội thảo Xây dựng Chiến lược lâm nghiệp quốc gia giai đoạn
2006- 2020 khu vực miền Bắc gồm các tỉnh từ Thanh Hóa trở ra.
Hội thảo tập trung thảo luận: Dự thảo Chiến lược lâm nghiệp quốc gia giai đoạn
2006-2020; Chiến lược phát triển lâm nghiệp vùng Đông Bắc, Tây Bắc; các nhiệm vụ
đảm bảo ngành lâm nghiệp phát triển trong khu vực và đóng góp của ngành vào tăng
trưởng kinh tế quốc gia; Xây dựng các cơ sở hoàn thiện dự thảo Chiến lược trình
Chính phủ phê duyệt cuối tháng 12/2005 .
Mục tiêu trọng tâm của dự thảo Chiến lược giai đoạn 2006-2020 là đảm bảo hài
hòa nguồn tài trợ của các nhà đầu tư, các đối tác quốc tế tới ngành lâm nghiệp quốc
gia; Phát huy những kết quả đạt được của Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn
2001 - 2010; Đồng thời giúp các cơ quan liên quan ở Trung ương hoạch định chính
sách quản lý bảo vệ và phát triển rừng trong từng giai đoạn cụ thể. Để đáp ứng các
nguồn lực phát triển rừng, theo dự thảo, riêng giai đoạn 2006-2010, tổng nhu cầu vốn
cho các chương trình lâm nghiệp như: Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, khuyến lâm,
phòng cháy chữa cháy rừng, giống cây lâm nghiệp, công nghiệp chế biến lâm sản
khoảng gần 6.400 tỷ đồng.
Với nguồn lực đầu tư trên, đến năm 2010, ngành lâm nghiệp phấn đấu đưa tốc độ
tăng trưởng sản xuất của ngành đạt từ 1,5-2% trên năm, đạt độ che phủ tạng toàn quốc
43% và tạo việc làm cho 1 triệu lao động sống bằng nghề tung.
Các giải pháp đột phá thực hiện chiến lược:
+ Cơ chế, chính sách đột phá về chủ sử dụng tài nguyên ưng: Cần xây dựng chính
sách tạo ra đột phá trong giao đất lâm nghiệp trong đó cả đất có rừng, chú ý tới đồng
bào các dân tộc sau khi quy hoạch và cân đối quỹ đất, vốn rừng trong khoảng 20 đến
50 năm. Nghiên cứu về cơ cấu vốn rừng theo các chủ sở hữu ở hai quốc gia là Nhật
Bản và Thay Điển cho thấy rừng do tư nhân, cộng đồng, các công ty quản lý chính,
trong khi Nhà nước chỉ quản lý khoảng dưới 20%, Việt Nam không thể áp dụng
nguyên như vậy nhưng cần đi theo xu hướng này vì sẽ huy động được nguồn lực của
mọi thành phần, tạo nên động lực mới để phát triển lâm nghiệp và xoá đói giảm nghèo.
7
+ Đổi mới hệ thống tổ chức ngành lâm nghiệp gắn chặt với cải cách hành chính:
Hệ thống tổ chức hành chính của ngành lâm nghiệp chưa được hoàn thiện nên chưa
phát huy tốt được vai trò của mình. Hệ thống quản lý Nhà nước của ngành lâm nghiệp
nên theo mô hình mỗi cấp một đầu mối: Trung ương (cơ quan lâm nghiệp trung ương),
cấp tỉnh (cơ quan lâm nghiệp tỉnh), cấp huyện (cơ quan lâm nghiệp huyện) và cấp xã
(xã có rừng) có cán bộ lâm nghiệp huyện) và cấp xã (xã có rừng) có cán bộ lâm
nghiệp. Hiện nay, quản lý lâm nghiệp Nhà nước chưa tách ra khỏi khối kinh doanh sản
xuất lâm nghiệp. Đây là khâu then chốt trong quá trình cải cách hành chính mà ngành
lâm nghiệp cần kiên quyết tiến hành.
+ Đổi mới chính sách, cơ chế thu hút đầu tư: Nếu không có tiền sẽ không làm
được điều gì mà cách làm cụ thể là hoàn thiện hệ thống thuế theo cách tiếp cận tổng
thể nhưng rất cụ thể. Tính tổng thó thể hiện ở chỗ thuế phải tính cho cả hai loại hàng
hoá lâm sản (truyền thống và mới), theo xu thế hội nhập và ôn định trong thế vận động
đi lên. Cụ thể được thể hiện ở chỗ có loại cần tính đúng, tính đủ nhưng có loại do
nhiều nguyên nhân cần có những ưu đãi. Ví dụ đối với hàng hoá lâm sản đồ gỗ xuất
khẩu, Chính phủ đã đưa ra chính sách thuế hợp lý hiện nay nên đã khuyến khích sản
xuất phát triển. Mặt khác cần hạ thấp mức lãi xuất đối với các chương trình dự án xây
dựng vùng nguyên liệu hay ưu đãi đối với nghiên cứu về giống, hàng hoá lâm sản
mới... ưu tiên phát triển 3 vùng động lực đã nêu nhằm đẩy mạnh hơn nữa sản xuất
hàng hoá lâm sản xuất khẩu
+ Đổi mới khoa học công nghệ và đào tạo: Theo ý kiến của một số chuyên gia có
kinh nghiệm (Việt Nam và quốc tế) thì chúng ta cần phải xây dựng nền khoa học lâm
nghiệp hàn lâm. Nguyên nhân do chu kỳ kinh doanh dài, diễn ra trên điều kiện khó
khăn và việc thu hút nguồn lực vào phát triển rất khó. Ngành lâm nghiệp cần nghiên
cứu, dự báo xu thế phát triển quốc gia phù hợp với xu thế phát triển của lâm nghiệp thế
giới và điều kiện đặc thù của mình. Trên cơ sở này sẽ xây dựng, thẩm định và thực thi,
giám sát các chương trình khoa học, công nghệ lâm nghiệp và chương trình đào tạo
tiên tiến. Cần khẩn trương đổi mới toàn diện khâu đào tạo để phát triển bền vững lâm
nghiệp. Hỗ trợ để tiến hành công tác chuyển giao công nghệ sinh học, thực hiện công
tác khuyến lâm và ứng dụng công nghệ tin học vào phát triển lâm nghiệp hiệu quả, bền
vững.
+ Hỗ trợ đồng bào các dân tộc sinh sống ở miền núi: Hiện tại chúng ta có khoảng
20 triệu đồng bào các dân tộc ở Việt Nam có cuộc sống liên quan đến rừng và nghề
rừng mà đa số họ đều nghèo lại sống trong điều kiện khó khăn. Cần tiếp tục hỗ trợ
đồng bào các dân tộc như chúng ta đã làm vì hiệu quả của chúng không những người
Việt Nam mà cả người nước ngoài đều công nhận. Nên chăng bằng chính sách cụ thể
và sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chúng ta nên hỗ trợ cụ thể để người nghèo
sống trong và gần rừng giải quyết vấn đề đất và làm nhà ở. Sau đó chúng ta sẽ cùng họ
giải quyết những vấn đề khác như khuyến lâm, nguồn vốn ưu đãi, tiếp tục xây dựng cơ
8
sở hạ tầng, sản xuất ra nhiều hàng hoá lâm sản, tìm kiếm thị trường tiêu thô và giải
quyết vấn đề sức khoẻ và tạo cơ hội để họ được hưởng thụ từ sự phát triển kinh tế - xã
hội của quốc gia.
Các chương trình lớn để thực hiện đột phá chiến lược phát triển
+ Chương trình xây dựng lâm phận quốc gia (đổi mới cơ cấu chiều sâu): Mục tiêu
là xây dựng lâm phận quốc gia ổn định nhằm phát triển đất nước bền vững - đảm bảo
an ninh lâm nghiệp. Nội dung chính của nó là xây dựng lâm phận quốc gia ổn định
trên 16 triệu ha với cơ cấu cụ thể như sau: Hệ thống rừng sản xuất là 8 triệu ha, trong
đó có 4 triệu ha tung thâm canh với khoảng 1,5 triệu ha rừng trồng; hệ thống rừng
phòng hộ là 6 triệu ha, trong đó có 3 triệu ha rừng phòng hộ trọng điểm; hệ thống rừng
đặc dụng là 2 triệu ha, trong đó có 1 triệu ha rừng đặc dụng trọng điểm. Theo dõi, đánh
giá được thực hiện theo các chỉ tiêu số lượng và chất lượng cụ thể khi xây dựng lâm
phận quốc gia.
+ Chương trình giống lâm nghiệp quốc gia (Công nghệ sinh học): Mục tiêu là tạo
ra bộ giống lâm.nghiệp đạt tiêu chuẩn quèc gia để tạo đột phá năng suất và chất lượng
rừng trọng điểm. Nội dung chính của chương trình là: Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn
quốc gia về giống lâm nghiệp và trên cơ sở đó tuyển chọn bộ giống lâm nghiệp quốc
gia; Quy hoạch, xây dựng và quản lý hệ thống rừng giống quốc gia theo tiêu chuẩn nêu
trên; áp dụng công nghệ mới nhằm lai tạo ra bộ giống lâm nghiệp đáp ứng mục đích
xây dựng rừng trọng điểm quốc gia; Xây dựng hệ thống hành lang pháp lý và cơ sở
dịch vụ giống trước hết để phục vụ phát triển sản phẩm lâm sản trọng điểm.
+ Chương trình thâm canh rừng nguyên liệu quốc gia (công nghiệp hoá (CNH),
hiện đại hoá (HĐH) và tạo tích tụ khoa học công nghệ cao trên đơn vị sản phẩm): Mục
tiêu chương trình.là tạo ra bước đột phá, đáp ứng nhu cầu tăng mạnh của quốc gia về
nguyên liệu trước hết là nguyên liệu gỗ, tre và đặc sản để sản xuất hàng hoá lâm sản,
ưu tiên mặt hàng lâm sản đế xuất khẩu. Nội dung chính là: Quy hoạch xác định vi trí,
quy mô và cơ cấu hợp lý về 4 triệu ha rừng nguyên liệu thâm canh (cụ thể như phần
trên đã nêu); Ti^n hành xây dựng hệ thống rừng nguyên liệu thâm canh trọng điểm
quèc gia bằng giống mới, công nghệ lâm sinh hiện đại và hoàn thiện cả cơ sở hạ tầng
như hệ thống đường lâm nghiệp, bến bãi gắn liền xây dựng khu lâm công nông nghiệp
tổng hợp trọng điểm; Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia đồng bộ phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế về tiêu chuẩn rừng nguyên liệu bền vững và tiêu chuẩn nguyên liệu thô.
+ Chương trình hàng hoá lâm sản truyền thống chủ lực quốc gia (đổi mới cơ cấu,
CNH, HĐH, cải cách hành chính và hội nhập quốc tế): Mục tiêu cụ thể là đáp ứng nhu
cầu tăng mạnh của quốc gia về hàng hoá lâm sản, tạo dựng được các mặt hàng lâm sản
xuất khẩu mang thương hiệu Việt Nam có uy tín, cạnh tranh tốt trên thị trường quốc tế,
trọng tâm là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản... Nội dung chính là: Quy hoạch cơ cấu, chủng
loại và quy mô sản xuất hàng hoá lâm sản trọng điểm quốc gia, trọng tâm vào mặt
hàng phát triển thành thương hiệu uy tín, cạnh tranh tốt trên thị trường quốc tế trên 3
9
vùng động lực đã nêu để sản xuất đồ gỗ và đồ tre nứa xuất khẩu, đồ gỗ và tre nứa mỹ
nghệ xuất khẩu; trước mắt cần có bước đi hợp lý để xác định nơi và khối lượng gỗ
nhập khẩu để sản xuất ra đồ gỗ xuất khẩu nhằm đáp ứng thời cơ và giữ vững nhịp độ
tăng trưởng cao như hiện nay; xây dựng.c3c nhà máy, xí nghiệp gắn liền khu nguyên
liệu đồng bộ với cơ sở hạ tầng ở miền Bắc, miền Trung, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên
có quy mô hợp lý để sản xuất ra ván nhân tạo, sản phẩm chế biến từ nó và bột, dầm,
giấy... và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn sản phẩm quốc gia bao gồm cả hàng hoá lâm
sản mới và hàng hoá lâm sản truyền thống, chú trọng sản phẩm lâm sản xuất khẩu theo
tư duy đồng bộ cả về môi trường và phù hợp tiêu chuẩn quốc tế (ISO).
+ Chương trình xây dựng rừng phòng hộ và rừng đặc dụng trọng điểm quốc gia (đổi
mới cơ cấu theo chiều sâu, CNH, HĐH và phát triển sản phẩm lâm sản mới): Mục tiêu
của nó là tạo dựng có kết quả cao hệ thống rừng phòng hộ và rừng đặc dụng quốc gia,
trước hết ở các khu trọng điểm nhằm mang lại hiệu quả thiết thực. Nội dung chính
chương trình là: Quy hoạch xác định hệ thống rừng phòng hộ quốc gia, xác định hệ
thống rừng phòng hộ trọng điểm quốc gia; quy hoạch xác định hệ thống rừng đặc dụng
quốc gia, xác định hệ thống rừng đặc dụng trọng điểm quốc gia; nghiên cứu xác định giá
trị sản phẩm lâm sản mới; ưu tiên tạo dựng hệ thống rừng phòng hộ trọng điểm gồm
rừng phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ môi trường và phòng hộ ven biển; ưu tiên tạo dựng
hệ thống Vườn quốc gia và Khu Bảo tồn trọng điểm, Khu Di tích lịch sử trọng điểm.
+ Chương trình giao rừng, khoán tung (cách mạng về đất rừng): Mục tiêu là tạo
động lực phát triển lâm nghiệp và xoá đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống cho nhân
dân thông qua kinh doanh sản xuất và quản lý, bảo vệ cũng như xây dựng rừng ở Việt
Nam, đặc biệt là khu vực trung du, miền núi, vùng xa và biên giới, hải đảo. Nội dung
chính của chương trình là: Phối hợp với các ngành đánh giá lại tình hình phát triển sản
xuất lâm nghiệp, tình hình đói nghèo và khả năng phát triển sản xuất ở vùng trung du,
miền núi, vùng xa và biên giới, hải đảo; đánh giá lại tình hình tài nguyên, cụ thể là tài
nguyên rừng và tình hình các thành phần tham gia sản xuất lâm nghiệp và quản lý, bảo
vệ sử dụng cũng như phát triển tài nguyên rừng; đánh giá tình hình về chủ sử dụng, quản
lý tài nguyên rừng và tình hình giao đất, thuê đất lâm nghiệp, khoán rừng để phát triển
kinh tế - xã hội, phát triển lâm nghiệp; đánh giá tình hình phát triển sản xuất lâm nghiệp
và công tác khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư, khuyến thuỷ lợi, tín dụng nhằm
đưa ra giải pháp sử dụng bền vững nguồn tài nguyên; tạo ra cuộc cách mạng trong sản
xuất kinh doanh lâm nghiệp bằng cách giao rừng, cho thuê đất... và nâng cao mức khoán
bảo vệ rừng, đẩy mạnh phổ cập, ưu đãi vay ngân hàng và phối hợp giữa chính quyền,
doanh nghiệp, người dân làm lâm nghiệp đề phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm
nghèo, giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Khi đề xuất các chương trình này không ít
người sẽ đặt ra câu hỏi tại sao không có chương trình phát triển nguồn nhân lực lâm
nghiệp. Điều này được giải thích là những chương trình này bản thân nó đã chứa đựng
nội dung phát triển nguồn nhân lực. Mặt khác, phát triển nguồn nhân lực là việc làm của
toàn xã hội mà trước hết là của ngành giáo dục và đào tạo.
10
Chương II
KỸ THUẬT SẢN XUẤT HẠT GIỐNG CÂY RỪNG
2.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA HẠT GIÓNG CÂY RỪNG
Nước ta, rừng trồng trải ra trên diện tích rộng lớn, cây rừng sống lâu năm, trình độ
cơ giới hoá trong sản xuất còn thấp, nhân lực, vốn đầu tư có hạn. Rừng sau khi trồng ít
có điều kiện chăm sóc, do đó công tác giống có tầm quan trọng đặc biệt. Có thể nói,
giống là một trong những khâu quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đến sản lượng,
chất lượng rừng trồng.
Những năm trước thời kỳ đổi mới, chúng ta chưa đánh giá đúng tầm quan trọng và
vai trò to lớn của công tác giống trong sản xuất lâm nghiệp. Sự quan tâm của công tác
giống lúc bấy giờ chủ yếu là làm sao có đủ số lượng giống cho trồng rừng, hầu như
chưa coi trọng đến chất lượng giống.
Sử dụng giống không rõ nguồn gốc, xuất xứ, thu hái xô bồ, dẫn đến rừng trồng có
chất lượng kém, năng suất thấp phổ biến chỉ đạt 5-10m3
/ha/năm. Trong khi đó ở nhiều
nước trên thế giới sử dụng giống có chọn lọc, năng suất đạt 30-70m3
/ha/năm.
Những năm gần đây, công tác giống đã có những chuyển biến căn bản theo hướng
sản xuất kinh doanh sử dụng giống tốt, đã được cải thiện từ các cơ quan chuyên môn.
Cần nhấn mạnh rằng "Hạt giống tốt" bao gồm cả sức sống cao, khoẻ mạnh và có chất
lượng di truyền. Khả năng của chúng có thể sản sinh ra những cây thích nghi tốt với
điều kiện của môi trường nơi trồng và cung cấp những sản phẩm theo mong muốn của
con người.
Cả số lượng và chất lượng của hạt giống đều bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố
bên ngoài như điều kiện khí hậu, thời tiết trong năm và phụ thuộc vào loài cây, tuổi
cây mẹ và cường độ chăm sóc cây lấy giống, phụ thuộc vào việc thu hái, xử lý và bảo
quản hạt giống,....Do đó việc sản xuất hạt giống cây rừng cần thấy rõ những đặc điểm
này để lựa chọn và áp dụng các biện pháp kỹ thuật sao cho có hiệu quả nhằm đảm bảo
về chất lượng, thoả mãn cả về số lượng, chủng loại giống, đáp ứng cao nhất nhu cầu
sản xuất cây con phục vụ cho trồng rừng ở nước ta.
2.2. KHẢ NĂNG RA HOA KẾT QUẢ VÀ CÁC NHÂN TÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
SẢN LƯỢNG HẠT GIÓNG CÂY RỪNG
2.2.1. Khả năng ra hoa kết quả của cây rừng
Cây rừng là thực vật thân gỗ sống lâu năm, có khả năng ra hoa kết quả nhiều lần.
Ra hoa kết quả là đặc trưng quan trọng, là sự biến đổi về chất của thực vật. Các loài
cây rừng có nguồn gốc từ hạt trong những năm đầu (thường từ 3-4 năm hoặc lâu hơn)
chưa có khả năng ra hoa kết quả. Hiện tượng này gọi là "tính chín muộn" của cây thân
11
gỗ. Khả năng ra hoa kết quả của cây rừng phụ thuộc vào loài, tuổi, điều kiện sống. Quá
trình sinh trưởng phát triển của cá thể cây rừng được chia thành các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn non trẻ
Tính từ khi hạt nảy mầm đến trước khi cây ra hoa kết quả lần đầu. Ở giai đoạn này
khả năng thích ứng của cây rừng rất cao, nhưng khả năng chống chịu với điều kiện bất
lợi của môi trường thấp. Các cơ quan sinh dưỡng sinh trưởng mạnh, cây chưa có khả
năng ra hoa kết quả. Vì vậy khi cây ra hoa kết quả thì kết thúc giai đoạn này.
+ Giai đoạn gần thành thục
Tính từ khi cây bắt đầu ra hoa kết quả lần đầu cho tới sau đó 3 - 5 năm, giai đoạn
này cơ quan sinh dưỡng sinh trưởng mạnh, lượng hoa quả tăng dần, tán cây dần hình
thành, sức đề kháng với những bất lợi của môi trường cao hơn giai đoạn non trẻ.
+ Giai đoạn thành thục
Hình dạng của cây đã định hình, cơ quan sinh dưỡng sinh trưởng chậm lại, cây
rừng ra hoa kết quả mạnh nhất, sản lượng hạt giống ổn định trong một thời gian dài,
các đặc tính di truyền ổn định. Đây là giai đoạn thành thục tái sinh, có thể kinh doanh
hạt giống tốt nhất.
+ Giai đoạn già cỗi
Lượng tăng trưởng hàng năm của các cơ quan sinh dưỡng giảm thấp, dần đi đến
ngang trệ. Các quá trình trao đổi chất chậm và yếu, khả năng ra hoa kết quả của cây
rừng giảm dần chất lượng hạt giống kém, sức đề kháng với những điều kiện bất lợi của
môi trường kém, cây dễ bị sâu bệnh, tán lá bị phá vỡ, cây rỗng ruột và chết.
Khả năng ra hoa kết quả của các cá thể cây rừng thay đổi theo tính giai đoạn và
theo tính chu kỳ hàng năm. Sự phân chia các giai đoạn trên chỉ là tương đối và ranh
giới giữa các giai đoạn không phải là cố định mà tuỳ thuộc loài cây và điều kiện hoàn
cảnh. Trong kinh doanh tăng có thể tác động vào điều kiện hoàn cảnh để rút ngắn giai
đoạn non trẻ và kéo dài giai đoạn thành thục để lợi dụng tốt hơn.
Quá trình sinh trưởng và phát triển của thực vật có mối quan hệ thống nhất biện
chứng: Sự hình thành các cơ quan sinh sản đều phải dựa trên cơ sở sinh trưởng và tích
luỹ vật chất dinh dưỡng của các cơ quan dinh dưỡng - ngược lại cây ra hoa kết quả
nhiều cũng hạn chế nhất định đến sinh trưởng của bản thân nó.
Với các loài cây khác nhau, tuổi ra hoa kết quả và khả năng kéo dài giai đoạn ra
hoa kết quả là khác nhau. Phần lớn ở cây mọc nhanh, ưa sáng và cây ở từng tái sinh
chồi sớm ra hoa kết quả song cũng sớm già cỗi. Ngược lại ở cây mọc chậm, chịu bóng
và cây có nguồn gốc từ hạt ra hoa kết quả muộn hơn nhưng giai đoạn cây có khả năng
ra hoa kết quả dài hơn. Nguyên nhân là do đặc tính di truyền và do tác động của điều
kiện hoàn cảnh ảnh hưởng rõ rệt đến quá trình ra hoa quả.
12
Mỗi loài cây tuổi ra hoa kết quả sớm muộn là do tính di truyền quyết định, nhưng
trong cùng một loài cây tuổi ra hoa kết quả và giai đoạn ra hoa kết quả dài ngắn cũng
không phải là cố định mà có sự chi phối của các nhân tố hoàn cảnh. Những cây mọc
đơn lẻ ra hoa kết quả sớm hơn cây trong từng, cây ở rừng nhân tạo ra hoa kết quả sớm
hơn cây ở rừng tự nhiên, vì điều kiện ánh sáng và dinh dưỡng tốt hơn, sinh trưởng
mạnh hơn nên ra hoa kết quả sớm hơn.
Khả năng ra hoa kết quả của cây rừng thay đổi theo từng giai đoạn. Tuỳ từng giai
đoạn mà khả năng có xuất hiện hay không, xuất hiện nhiều hay ít. Song ngay trong cùng
giai đoạn ra hoa kết quả của cây rừng nhiều nhất thì sản lượng hàng năm cũng không
đồng đều, có năm quả nhiều, năm quả ít, cách mấy năm lại có một năm sai quả. Hiện
tượng đó gọi là tính chu kỳ sai quả (giãn cách) của cây rừng. Hầu hết các loài cây sau
một năm sai quả (được mùa) phải mất một thời gian tuỳ theo loài cây và điều kiện ngoại
cảnh, thường là từ 1 -3 năm hoặc nhiều hơn nữa mới lại có một năm được mùa. Những
năm mà sản lượng đạt trên 60% số cây có quả thì gọi là năm được mùa hạt giống, từ 40
- 60% là khá, từ 20 -40% là trung bình và những năm mà đạt thấp hơn 20% số cây có
quả thì gọi là năm mất mùa hạt giống. Thông thường những năm được mùa thì không
những sản lượng hạt giống nhiều mà chất lượng hạt giống cũng cao và ngược lại.
Nhiều loài cây rừng ra hoa quả không uluullg xuyên, một năm có thể được mùa
tiếp theo là một hay vài năm mùa kém hay hoàn toàn mất mùa. Tính chu kỳ của sự ra
hoa quả đã được nghiên cứu kỹ đối với nhiều loài cây lá kim ôn đới. Ví dụ ở Anh loài
Thông Pinus sylvestris trung bình cứ 2-3 năm sai quả một lần. Tính chu kỳ của những
loài cây nhiệt đới còn ít được nghiên cứu hơn. Sự ra hoa quả không thường xuyên của
của cây đã có ảnh hưởng lớn đến sự tái sinh, hoặc không tái sinh của loài đó. Tếch
Tectona grandis thường sai hoa hàng năm mặc dù ở một số nơi có ngoại lệ là cứ 3-4
năm mới có một vụ được mùa hạt giống (Murthy 1973 - trong Phạm Hoài Đức 1992).
Chu kỳ sai quả của cây rừng còn phụ thuộc vào đặc điểm của quả - hạt và điều kiện
sinh trưởng, thường những loài cây hạt nhỏ ra hoa kết quả đều đặn hàng năm, những
loài cây có hạt to thường thời gian giãn cách (năm mất mùa) dài hơn. Nguyên nhân là
do năm ra hoa kết quả nhiều, tiêu hao nhiều chất dinh dưỡng ảnh hưởng tới sinh
trưởng cũng tức là ảnh hưởng đến khả năng ra hoa kết quả của năm sau. Thực tiễn đã
chứng minh rằng cải thiện điều kiện dinh dưỡng có thể rút ngắn hoặc kéo dài giai đoạn
ra hoa kết quả của cây rừng và rút ngắn chu kỳ sai quả. Nắm vững chu kỳ sai quả của
cây rừng không những có ý nghĩa trong nghiên cứu mà còn trong thực tế sản xuất, dự
tính được sản lượng hạt giồng, có kế hoạch thu hái, cất trữ dùng cho những năm mất
mùa hạt giống.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình ra hoa kết quả, sản lượng hạt giống
cây rừng
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự ra hoa kết quả và sản lượng hạt giống cây
rừng. Các nhân tố này đều có liên quan chặt chẽ đến quá trình sinh trưởng phát triển,
13
do vậy quá trình ra hoa kết quả của cây rừng chịu ảnh hưởng tổng hợp của nhiều nhân
tố sinh thái như: Khí hậu - thời tiết, chất dinh dưỡng,..
2.2.2.1. Nhân tố khí hậu - thời tiết.
• Khí hậu
Cả số lượng và chất lượng của hạt giống đều chịu ảnh hưởng rất nhiều của yếu tố
bên ngoài. Những yếu tố khí hậu có thể tác động đến sự ra hoa và gián tiếp ảnh hưởng
đến sản lượng hạt. Khí hậu thích hợp với sự sinh trưởng và phát triển của loài cây thì
sản lượng hạt giống cao, chất lượng tốt và thời gian gián cách giữa các năm được mùa
càng ngắn và ngược lại.
Trong cùng một loài cây, nếu sống trong điều kiện khí hậu có ánh sáng, nhiệt độ -
ẩm độ và lượng mưa thích hợp ra hoa kết quả sớm hơn, chu kỳ sai quả ngắn hơn và
chất lượng hoa quả cao hơn so với vùng có điều kiện ngược lại.
Ví dụ: Cây keo Tai Tượng (Acacia mangium), keo Lá Tràm (Acacia auriculiformis)
ở Miền Nam sinh trưởng tốt ra hoa kết quả nhiều - chất lượng hạt tốt. Song ở Miền
Bắc cây ra hoa kết quả kém, quả - hạt lép nhiều, chất lượng gieo ươm kém hơn.
Mỗi loài cây đều đòi hỏi một nhiệt độ nhất định mới ra hoa kết quả bình thường.
Nguyên nhân: Đỉnh sinh trưởng của các chồi sản sinh ra các tế bào mới - trong
quá trình sản sinh đó nếu nhiệt độ thích hợp cho quá trình ra hoa kết quả thì tế bào đó
sẽ hình thành mầm hoa, nếu nhiệt độ không thích hợp sẽ hình thành mầm lá, tuỳ theo
từng loại cây tính thích ứng với nhiệt độ khác nhau.
Theo tài liệu của M. Slee (1978), với loài Thông caribê (Pinus Caribeae) ranh giới
nhiệt độ để cây ra hoa là: Nếu 260
C cây không ra hoa, trên 270
C trong 2 tháng cây ra
hoa tốt, nếu trên 280
C ra hoa liên tục trong năm nhưng đều là hoa đực.
Ở vùng núi do độ cao so với mặt nước biển khác nhau dẫn đến điều kiện nhiệt độ,
ẩm độ khác nhau cũng ảnh hưởng đến khả năng ra hoa kết quả của cây rừng. Vì thế
cây đưa từ vùng núi cao xuống vùng thấp nó có thê chịu được nhiệt độ cao, song khó
thích ứng được với điều kiện khô hạn ngược lại đưa cây từ vùng thấp lên vùng cao có
thể thích ứng với ẩm độ cao song lại không chịu được nhiệt độ thấp, nhìn chung cây ở
vùng núi cao mùa sinh trưởng ngắn nên ra hoa kết quả kém.
• Nhân tố thời tiết
Thời tiết là nhân tố khí tượng diễn ra trong năm và hàng ngày như: Mưa - nắng -
nóng - lạnh - gió - bão. Những thái quá của thời tiết thường làm giảm sự ra hoa kết
quả, gió quá to hay những cơn giông cũng có thể làm hỏng hoa quả. Những trận mưa
kéo dài trong thời gian thụ phấn có ảnh hưởng đặc biệt xấu đến sản lượng hạt dù là
trường hợp thụ phấn nhờ gió hay côn trùng. Mưa thường hạn chế sự hoạt động của côn
trùng thụ phấn cũng như rửa trôi những hạt phấn bám ở đầu nhụy. Thời tiết ẩm thấp
14
kéo dài trong mùa thụ phấn là yếu tố chủ yếu làm giảm sản lượng hạt Thông Nhựa
(Pinus merkusii) ở Inđônêxia và Malaysia.
Sản lượng hạt giống của một năm cụ thể nào đó là do thời tiết năm trước đó và
ngay trong năm đó quyết định. Nguyên nhân là sự hình thành mầm hoa ở cây thân gỗ
diễn ra từ năm trước, còn thời tiết ngay trong năm đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình nở hoa, thụ phấn và phát triển của hoa,…
Thời tiết thường ảnh hưởng đến cả quá trình ra hoa và phát triển của quả, cho nên
không thể khẳng định rằng: Hoa nhiều thì quả- hạt cũng nhiều. Trong cùng một loài
cây, cùng một lâm phần, chịu ảnh hưởng nặng nhất của thời tiết xấu trước hết là những
cây, những lâm phần sinh trưởng kém, thể lực yếu. Do đó cần tăng cường các biện
pháp chăm sóc, cho cây khoẻ mạnh, có sức đề kháng cao để giảm nhẹ tác hại của thời
tiết xấu gây ra.
• Nhân tố ánh sáng
Ánh sáng là một trong những nhân tố cơ bản của hoạt động sống ở thực vật nói
chung và cây rừng nói riêng. ánh sáng cũng là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến ra hoa
kết quả của cây rừng.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy trong những điều kiện sinh trưởng khác gần
tương tự nhau, nhưng sự thay đổi ánh sáng, giờ chiếu sáng, chất lượng ánh sáng, có
ảnh hưởng rõ rệt đến ra hoa kết quả của cây rừng. '
Thực tế cho thấy những cây mọc đơn lẻ (cùng loài, cùng tuổi và điều kiện dinh
dưỡng) so với cây mọc trong rừng thường cho sản lượng và chất lượng hạt giống cao
hơn. Trong cùng một cây phần tán nhận được nhiều ánh sáng cũng cho nhiều hoa quả
hơn phần bị che khuất.
2.2.2.2. Nhân tố đất đai
Đất là giá thể môi trường sinh sống trực tiếp của bộ rễ và là nguồn cung cấp nước,
chất dinh dưỡng cho cây. Đất tốt cây ra hoa kết quả sớm, sản lượng - chất lượng quả, hạt
cao, chu kỳ sai quả ngắn và ngược lại. Đất tốt là đất giàu dinh dưỡng chủ yếu là N - P - K
và các nguyên tố vi lượng cần thiết đồng thời các thành phần đó có một tỷ lệ thích hợp.
Nước trong đất có ảnh hưởng rất lớn ra hoa kết quả của cây rừng vì nước ảnh
hưởng trục tiếp đến các quá trình hấp thụ chất dinh dưỡng, đến quá trình đồng hoá và
dị hoá của cây.
Do vậy muốn rút ngắn được chu kỳ sai quả, nâng cao được sản lượng, chất lượng
hạt giống cần thông qua tác động của con người như làm đất, bón phân, tưới nước,...
2.2.2.3. Nhân tố sinh vật
Nhân tố sinh vật có thể gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp, có lợi hoặc có hại
tới quá trình ra hoa kết quả của cây rừng.
15
Các loài chim, động vật, côn trùng, nấm, vi khuẩn có thể gây hại trong thời gian ra
hoa kết quả của cây rừng. Côn trùng có lẽ gây ra sự tổn thất lớn hơn cho phần lớn các
loài cây.
Ví dụ ấu trùng Pagyda salvaris có thể phá huỷ tới 90% hoa và nụ Tếch Tectona
grandis trong một số năm (Hedegart 1975 - trong Phạm Hoài Đức 1992). Sâu hại nón
Thông thuộc chi Dioryctria phá huỷ tới 60% nón đang chín và hạt Thông (Pinus
eliouii và Pinus palustris) ở miền Nam Hoa Kỳ (Krugmen ẹt ai. 1974 - trong Phạm
Hoài Đức 1992) và cũng chính giống sâu này có thể gây hại rất lớn cho hạt Thông
Nhựa (Pinus merkusii) ở Philipin (Gordon ẹt ai 1972 - trong Phạm Hoài Đức 1992).
Hạt của nhiều loài Keo như keo Tai tượng (Acacia mangium), keo Lá Tràm
(Acacia auriculiformis) ở vùng khô hạn cũng bị hại rất lớn do ấu trùng Bruchid gây ra
(Armitage et al. 1980 - trong Phạm Hoài Đức 1992). Chim, động vật, đặc biệt là Sóc,
có thể ăn một lượng hạt rất lớn mặc dù chúng cũng có ích trong việc phát tán hạt.
Sự thiệt hại do côn trùng và bệnh thường không nghiêm trọng trong những năm
được mùa hạt, nhưng trong những năm ra hoa kém do điều kiện thời tiết thì sâu bệnh
có thể làm cho mất mùa hoàn toàn.
Vật liệu (chồi - lá - hoa - quả - hạt...) của cây rừng là thức ăn cho nhiều loài chim -
thú - sâu do đó làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây vì thế ảnh hưởng đến quá trình
ra hoa kết quả và làm giảm sản lượng và chất lượng hạt giống.
Ngược lại, một số cây khi ra hoa nếu không có sự tham gia thụ phấn hoa của các
loại côn trùng (ong, bướm,... ) thì tỷ lệ kết quả giảm nhiều.
Con người là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sản lượng và chất lượng hoa
quả Có thể bằng các hoạt động tích cực tạo ra đầy đủ các yếu tố cần thiết cho cây sinh
trưởng tốt để cây ra hoa kết quả nhiều, chất lượng tốt, rút ngắn được chu kỳ sai quả
thông qua các biện pháp chọn giống - lai tạo, điều tiết quá trình trao đổi chất, làm cỏ,
bón phân, tưới nước, điều tiết ánh sáng, nhiệt độ,... tạo điều kiện cho cây ra hoa kết
quả tốt nâng cao chất lượng sản lượng hạt giống.
2.3. ĐIỀU TRA DỰ TÍNH SẢN LƯỢNG HẠT GIÓNG
Cũng như phần lớn các loài cây ăn quả, cây rừng có những loài cây năm nào cũng
sai quả như Phi Lao (Casuariana equisetifotia) hoặc đa số các cây thuộc họ đậu. Song
cũng có các loài cây khác tính chu kỳ sai quả thể hiện rất rõ như: Quế (Cinnamomun
cassia blum), Mỡ (Manglietia glauca BL), Thông nhựa (Pinus merkusii J.et De
Vries),,.... Vì vậy để nắm được chu kỳ sai quả của cây rừng, dự tính được sản lượng
hạt giống cho từng vùng, từng vụ thì phải có quá trình điều tra theo dõi thường xuyên.
Nhằm làm cơ sở để lập kế hoạch thu hái, bố trí kho tàng, nhân lao, lên phương án điều
hoà và sử dụng hợp lý hạt giống theo kế hoạch trồng rừng. Giúp con người tìm hiểu
quy luật ra hoa kết quả của cây rừng, để có biện pháp tác động nhằm nâng cao sản
lượng và chất lượng hạt giống.