Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Giáo trình thổng quan về Du lịch
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
TS. vữ ĐỨC MINH (Chủ biên)
Giáo trìnH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
TS. vc ĐỨC MINH (Chủ biên)
Giáo trình
TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH
NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ - 2008
LỜI GIỚI THIỆU
Du lịch ngày nay là một trong những ngành kính tế năng động
nhất của thếgiới, theo Tổ chức Du lịch Thếgiới (UNWTO) năm 2006
đã có 842 triệu khách đi du lịch quốc tểvới doanh thu đạt được 735 tỷ
USD; đến năm 2007 sốkhách du lịch quốc tếđạt gần 900 triệu khách,
tăng 6% so với năm 2006.
Trong những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam đã có sự phát
triển đáng khích lệ. Năm 2007 ngành du lịch Việt Nam thu hút được
xấp xỉ 4,2 triệu lượt khách du lịch quốc tế và 19,2 triệu lượt khách du
lịch nội địa, thu nhập từ du lịch dạt 56 nghìn tỷ đồng.
Đểdạt được các chỉ tiêu trên, ngành du lịch Việt Nam đã mỏ rộng
thị trường; tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch; tạo ra các sản
phẩm, dịch vụ du lịch hấp dẫn đối với du khách; nâng cao chất lượng
dịch vụ và đẩy mạnh hoạt động đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực có
trình độ và kỹ năng đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành trong
tiến trình hội nhập khu vực và thếgiới.
Nhằm góp phần cung cấp cho sinh viên đang theo học chuyên
ngành vê khách sạn - du lịch của trường Đại học Thương mại những
kiến thức căn bản và khái quát về du lịch, giáo trình Tổng quan về du
lịch lần đầu biên soạn năm 1999 do TS. Vũ Đức Minh làm chủ biên và
trực tiếp biên soạn chương mở đầu, mục 4 chương I và các chương 111,
ỈV, V, Vỉ; TS. Nguyễn Thị Nguyên Hồng biên soạn chương II; TS. Hà
Văn Sự biên soạn chương ỉ và mục ỉ.ỉ chương VI. Trong lần tái bản
nàyf chủ biên giáo trình đã chuẩn hóa một số thuật ngữ, cập nhật số
liệu, đồng thời cô' gắng kế thừa và phát triển các kiêh thức trong và
ngoài nước về du lịch nhằm đảm bảo cho giáo trình vừa mang tính hiện
đại, vừa phù hợp với đặc điểm phát triển du lịch ở Việt Nam. Có thể
nói: Tổng quan về du lịch là một bức tranh phác họa tương đối hoàn
chỉnh và sinh động các nguyên lý căn bản và thiết yếu nhất về du lịch.
3
Thông qua nội dung của 6 chương, bạn đọc sẽ được tiếp cận một
cách khái quát từ những khái niệm cơ bản vê du lịch, cơ sở hình thành
và lịch sử phát triển du lịch, động cơ và loại hình du lịch đến những
vấn đề cụ thể như điểm đến, điểm hấp dẫn du lịch, các tác động tích
cực và tiêu cực của du lịch; cùng với các vấn đề mang tính định hướng
như quy hoạch và phát triển du lịch.
Giáo trình đã được một số nhà khoa học trong ngành, dặc biệt là
tập thể bộ môn Quản trị Doanh nghiệp Du lịch nhận xét, đóng góp
nhiều ỷ kiến quý báu cho các tác giả. Do đó, có thể khẳng định đây là
một công trình có giá trị và đáng trân trọng. Tuy nhiên, do sự hạn chế
vê tài liệu tham khảo và của người biên soạn, nên giáo trình không thể
tránh khỏi những thiếu sót, mong nhận được góp ý từphía độc giả.
Xin trăn trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Bộ môn Quản trị Doanh nghiệp Du lịch
Trường Đại học Thương mại
4
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
MÔN HỌC TỔNG QUAN VỂ DU LỊCH
1. GIỚI THIỆU MÔN HỌC
Du lịch là hoạt động rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để đến một
nơi thường là xa lạ không nhằm mục đích định cư hay kiếm sống (làm
việc) mà nhằm thoả mãn trí tò mò, nâng cao sự hiểu biết hoặc đơn thuần
chỉ là một sự giải trí, nghỉ ngơi và thư giãn. Thực ra, hoạt động này đã
xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử tồn tại và phát triển của loài người. Lúc
đầu, có thể là những hiện tượng riêng lẻ và cá biệt, sau đó trở thành một
hiện tượng xã hội phổ biến và trở thành nhu cầu của con người.
Du lịch trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học
như xã hội học, tâm lý học và sau này thêm các nhà kinh tế học; dần
dần hình thành một khoa học về du lịch - du lịch học - mang tính
liên ngành. Du lịch học có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khoa học
khác nhau kể cả khoa học xã hội và khoa học tự nhiên hoặc sự kết
hợp của hai lĩnh vực khoa học này. Để có thể nghiên cứu được các
môn khoa học về du lịch cũng như có thể tham gia hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực du lịch, những người quan tâm trước hết cần
phải nắm vững được những khái niệm và những vấn đề cơ bản nhất
về du lịch với cách tiếp cận nó là một hiện tượng, một hoạt động xã
hội phổ biến trên cả hai phương diện cung và cầu trong nền kinh tế
thị trường. Những nội dung cơ bản đó, ở các quốc gia có ngành và
hoạt động du lịch phát triển, thường được đề cập trong các môn
Khái luận về du lịch (Overview of Tourism) hoặc Tổng quan về du
lịch (Introduction to Tourism).
Du lịch đồng thời còn là một trong những ngành kinh tế dịch vụ
được Đảng và Nhà nước ta tập trung đầu tư nhằm thúc đẩy sự phát triển.
Các chuyên ngành đào tạo về khách sạn và du lịch ở bậc đại học cần có
những môn học đặc thù, có chiều sâu và hoàn chỉnh trong lĩnh vực này.
5
Chính vì vậy, giáo trình Tổng quan về du lịch được biên soạn lần
này nhằm giới thiệu một cách có hệ thống, toàn diện và hiện đại các
vấn đề vừa căn bản, vừa khái quát về du lịch cho sinh viên trước khi đi
sâu nghiên cứu, tìm hiểu các học phần chuyên môn khác. Trong các
chương trình đào tạo đại học chuyên ngành về du lịch của nhiều nước
trên thế giới thì Tổng quan vê' du lịch là một trong các học phần
chuyên môn đặc thù và bắt buộc.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ NỘI DUNG MÔN HỌC
Tổng quan về du lịch là môn học thuộc khoa học xã hội và nhân
văn, có đối tượng nghiên cứu là các khái niệm, các phạm trù cơ bản
nhất liên quan đến hoạt động du lịch của con người. Trên cơ sở đó có
thể hiểu rõ bản chất và rút ra được các quy luật hoặc tính quy luật vận
động của các hiện tượng và hoạt động du lịch. Hoạt động du lịch bao
gồm hoạt động của người đi du lịch và hoạt động của người cung cấp
các hàng hóa và dịch vụ cho người đi du lịch. Những hoạt động này
không mang tính riêng lẻ mà có tính xã hội phổ biến trên cả hai
phương diện cung và cầu về du lịch trong điều kiện tồn tại và phát triển
sản xuất và lưu thông hàng hóa trên thị trường.
Tổng quan về du lịch còn nghiên cứu du lịch với tính chất của một
hệ thống. Hệ thống du lịch bao gồm nhiều yếu tố cấu thành có mối
liên hệ bên trong cũng như bên ngoài hệ thống. Sự phát triển của hệ
thống du lịch phải dựa trên cơ sở sự phát triển của các phần tử trong hệ
thống. Ngược lại, sự phát triển của mỗi yếu tố cấu thành phải tuân theo
sự phát triển chung của toàn bộ hệ thống. Môn học sẽ giúp chỉ ra bản
chất của các mối liên hệ này.
Ngoài ra, môn học còn đề cập đến việc sử dụng hoặc vận dụng các
khái niệm, các phạm trù, các mối liên hệ cơ bản đó trong thực tiễn
hoạt động du lịch ở Việt Nam. Đây là vấn đề hết sức cần thiết và quan
trọng vì du lịch Việt Nam mới đang ở những chặng đầu của sự phát
triển. Vì thế, nhận thức đúng đắn các vấn đề lý luận căn bản về du lịch
và biết vận dụng nhuần nhuyễn trong thực tế sẽ giúp cho ngành du lịch
có thể hội nhập khu vực và thế giới một cách nhanh chóng trong quá
trình phát triển.
6
Khi đề cập đến nội dung của môn học, có bao nhiêu tác giả thì có
bấy nhiêu ý kiến khác nhau. Với tính chất là một môn mở đầu, giới
thiệu và cung cấp những kiến thức căn bản và chung nhất về du lịch,
nên có thể đề cập rất nhiều nội dung khác nhau. Những nội dung được
đề cập trong giáo trình này trước hết dựa trên cơ sở đề cương học phần
đã được Hội đồng Khoa học và Đào tạo của khoa Khách sạn - Du lịch
và của trường Đại học Thương mại thông qua. Ngoài ra, những người
biên soạn chú ý đến những nội dung, vấn đề đang rất phổ biến trên thế
giới (đặc biệt ở các nước có ngành du lịch phát triển cao) nhưng ít
hoặc chưa được đề cập ở Việt Nam. Đồng thời, những người biên soạn
cũng chú ý tránh đi sâu những nội dung đã được trình bày khá kỹ
lưỡng và sâu sắc trong một số giáo trình chuyên ngành mà các trường
đại học đào tạo về du lịch đang sử dụng. Với tinh thần đó, giáo trình
được biên soạn với kết cấu 6 chương tương ứng với thời lượng dành
cho học phần theo quy định. Ngoài chương mở đầu giới thiệu đối
tượng và phương pháp nghiên cứu môn học, chương I cố gắng khái
quát hóa các quan niệm khác nhau về du lịch, các bộ phận cấu thành
của nó, cũng như các cơ sở hình thành và lịch sử phát triển du lịch.
Chương II giới thiệu hai vấn đề cơ bản nhất là động cơ và loại hình du
lịch. Hai vấn đề này là nền tảng cho hai vế cầu và cung trên thị trường
du lịch sau này. Chương III đi sâu tìm hiểu về điểm đến du lịch, đổng
thời một yếu tố quan trọng nhất của điểm đến còn ít được đề cập trong
các giáo trình tương tự ngay cả ở các nước có ngành và khoa học về du
lịch phát triển đó là điểm (sự) hấp dẫn du lịch. Chương IV vừa khái
quát hóa và cụ thể hóa ba tác động chủ yếu của du lịch về kinh tế, văn
hóa - xã hội và môi trường đối với một điểm đến du lịch. Hai chương
còn lại V và VI về thực chất là một, vì quy hoạch bao giờ cũng đi đôi
với phát triển du lịch. Với nội dung khá phong phú và để đi sâu nghiên
cứu nên vấn đề quy hoạch phát triển du lịch được tách thành hai
chương nối tiếp nhau.
Tổng quan về du lịch là học phần chuyên môn cơ sở cho tất cả các
chuyên ngành đào tạo về du lịch và dịch vụ. Đồng thời, nó cũng rất
cần thiết trong các chương trình đào tạo và bồi dưỡng ngắn hạn cho
những người mới hoặc đã làm việc trong ngành vì tính chất nền tảng và
căn bản của nó.
7
3. PHUÖNG PHÁP NGHIÊN cúu MÔN HỌC
Là môn khoa học xã hội nên phương pháp luận về duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử được sử dụng nghiên cứu môn Tổng quan về
du lịch. Phương pháp duy vật biện chứng đòi hỏi việc nghiên cứu các
sự vật và hiện tượng không ở trạng thái tĩnh mà trong mối quan hệ tác
động qua lại với các sự vật và hiện tượng khác. Thông qua sự tương tác
đó mà bản chất của sự vật hiện tượng mới dễ dàng bộc lộ. Trong khi
đó, phương pháp duy vật lịch sử đòi hỏi xem xét sự vật hiện tượng ở
thực tại nhưng trong mối quan hệ với quá khứ, với lịch sử của sự vật và
hiện tượng đó. Nhờ đó mà có thể dự đoán được xu hướng vận động và
phát triển của sự vật và hiện tượng trong tương lai.
Du lịch là một hệ thống với sự tham gia của nhiều yếu tố cấu
thành. Do đó, phương pháp tiếp cận hệ thống cũng cần thiết sử dụng
trong quá trình nghiên cứu môn học. Phương pháp đòi hỏi việc nghiên
cứu đi từ các yếu tố riêng lẻ để cuối cùng có được sự hiểu biết đầy đủ,
khái quát mang tính tổng thể của toàn bộ hệ thống. Mặt khác, trên cơ
sở nghiên cứu tìm hiểu toàn bộ hệ thống một cách tổng thể để có thể
xử lý các yếu tố cấu thành một cách phù hợp nhằm đảm bảo phát triển
toàn bộ hệ thống cũng như từng yếu tố cấu thành trong hệ thống.
Ngoài ra, môn học còn sử dụng các phương pháp điều tra xã hội
học, điều tra tâm lý, phân tích thống kê và mô hình hóa nhằm làm rõ
một số nội dung cần thiết và đặc thù.
Tổng quan về du lịch có mối liên hệ mật thiết về kiến thức với
các môn học khác như Tâm lý học, Xã hội học, Địa lý du lịch, Văn
hóa du lịch...
8
CHƯƠNG I
Sự HÌNH THÀNH VÀ LỊCH sử PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1. BẢN CHẤT CỦA DU LỊCH
1.1. Các quan niệm về du lịch
Con người vốn tò mò về thế giới xung quanh, muốn có thêm
hiểu biết về cảnh quan, địa hình, hệ động thực vật và nền văn hóa
của những nơi khác. Vì vậy, du lịch đã xuất hiện và trở thành một
hiện tượng khá quan trọng trong đời sống của con người. Đến nay,
du lịch không còn là một hiện tượng riêng lẻ, đặc quyền của cá nhân
hay của một nhóm người nào đó, mà du lịch đã trở thành một nhu
cầu xã hội phổ biến đáp ứng mục tiêu không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho con người. Tuy nhiên, khái niệm du lịch
có nhiều cách hiểu do được tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau. Sau
đây là một số quan niệm về du lịch theo các cách tiếp cận phổ biến.
1.1.1. Tiếp cận du lịch dưới góc độ nhu cầu của con người
- Du lịch là một hiện tượng: Trước thế kỷ XIX, đến đầu thế kỷ XX
du lịch hầu như vẫn được coi là đặc quyền của tầng lớp giầu có, quí tộc
và người ta chỉ coi đây như là một hiện tượng cá biệt trong đời sống
kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ này, người ta coi du lịch như một hiện
tượng xã hội góp phần làm phong phú thêm cuộc sống và nhận thức
của con người. Đó là hiện tượng con người rời khỏi nơi cư trú thường
xuyên để đến một nơi xa lạ vì nhiều mục đích khác nhau ngoại trừ mục
đích lìm kiếm việc làm (kiếm tiền) và trong thời gian đó họ phải tiêu
tiền mà họ đã kiếm được. Các giáo sư Thụy Sĩ là Hunziker và Krapf đã
khái quát: Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ nảy
sinh từ việc đi lại và lưu trú của những người ngoài địa phương -
những người không có mục đích định cư và không liên quan tới bất cứ
hoạt động kiếm tiền nào'. Quan niệm này được Hiệp hội quốc tê' các
chuyên gia khoa học về du lịch (AIEST) thừa nhận.
1 Trong: S.L.J. Smith. Tourism Analysis: A Handbook. Longman Scientific & Technical,
Essex (England). 1991.
9
Với quan niệm này, du lịch mới chỉ được giải thích ở hiện tượng đi
du lịch, tuy nhiên đây cũng là một khái niệm làm cơ sở để xác định
người đi du lịch và là cơ sở hình thành cầu về du lịch sau này.
- Du lịch là một hoạt động: Theo Mill và Morrison, du lịch là một
hoạt động xảy ra khi con người vượt qua biên giới (một nước, hay ranh
giới một vùng, một khu vực) để nhằm mục đích giải trí hoặc đi công
việc và lưu trú tại đó ít nhất 24 giờ nhưng không quá một năm. Như
vậy, có thể xem xét du lịch thông qua những hoạt động đặc trưng mà
con người mong muốn trong các chuyến đi. Du lịch có thể được hiểu
“là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm
hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định."2
2 Luật Du lịch. Điều 4. Chương I. NXB Chính trị Quốc gia. 2005.
Từ các góc độ nói trên, bản chất của du lịch được chỉ rõ thông qua
5 đặc điểm chính như sau:
1. Du lịch nảy sinh từ sự di chuyển và lưu trú của con người ở các
nơi đến khác nhau.
2. Có hai yếu tố chính trong hoạt động du lịch: Hành trình tới nơi
đến và lưu lại, trong đó bao gồm cả các hoạt động ở nơi đến.
3. Chuyến đi và lưu trú xảy ra bên ngoài nơi cư trú và làm việc
thường xuyên, do đó du lịch làm nảy sinh những hoạt động của
người đi du lịch ở nơi đến khác biệt với những hoạt động của
cư dân sinh sống và làm việc ở đây.
4. Sự di chuyển tới nơi đến mang tính tạm thời, thời gian ngắn và
sau đó quay trở về trong khoảng vài ngày, vài tuần hoặc vài
tháng.
5. Chuyến đi với nhiều mục đích song không vì mục đích định cư
hoặc tìm kiếm việc làm tại nơi viếng thăm.
Với các cách tiếp cận nói trên, bản chất của du lịch chủ yếu mới
chỉ được giải thích dưới góc độ là một hiện tượng, một hoạt động
thuộc nhu cầu của khách du lịch.
- Du lịch dưới góc độ là khách du lịch: Một quan niệm khác xem
xét khái niệm và bản chất của du lịch dưới góc độ người đi du lịch.
Theo cách tiếp cận này, nhà kinh tế học người Anh, Ogilvie khái niệm
10
khách du lịch là “tất cả những người thoả mãn Jiai-4ịồtrkiệnX rời khỏi
nơi ở thường xuyên trong một khoản thời gian dưới một năm và chi
tiêu tiền bạc tại nơi họ đến thăm mà không kiếm tiền ở đó.”1*3 Khái
niệm này chưa hoàn chỉnh vì nó chưa làm rõ được mục đích của người
đi du lịch và qua đó để phân biệt được với những người cũng rời khỏi
nơi cư trú của mình nhưng lại không phải là khách du lịch.
1 Trong: C.L. Morley. “What is Tourism? Definitions, Concepts and Characteristics” The
Journal ofTourism Studies, Vol.l. No.l, May 1990, pp. 3- 8.
q Trong: C.L. Morley, Tài liệu đã dàn.
Nhà xã hội học Cohen lại quan niệm khách du lịch là “một người
đi tự nguyện, mang tính nhất thời, với mong muốn được giải trí từ
những điều mới lạ và thay đổi thu nhận được trong một chuyến đi
tương đối xa và không thường xuyên.”4 Khái niệm này cho phép phân
biệt du lịch với những dạng di chuyển của những người không phải là
khách du lịch qua 7 đặc điểm sau:
1. Tính nhất thời để phân biệt với sự đi lại thường xuyên của
những người du mục, du canh du cư.
2. Tính tự nguyện để phân biệt với chuyến đi bắt buộc của những
người bị đi đày và tỵ nạn.
3. Có sự quay về để phân biệt với chuyến đi một chiều của những
người di cư.
4. Có khoảng cách và thời gian tương đối dài để phân biệt với
chuyến đi của những người đi tham quan và dạo chơi.
5. Không lặp lại thường xuyên để phân biệt với chuyên đi lặp lại
của những người chủ sở hữu nhà nghỉ.
6. Không mang tính chất là phương tiện để phân biệt với việc đi
lại như là phương tiện nhằm mục đích kinh doanh, đại diện bán
hàng và hành hương.
7. Nhằm vào sự mới lạ và thay đổi để phân biệt với chuyến đi có
mục đích khác như học tập, nghiên cứu.
Quan niệm của Cohen không được thừa nhân rộng rãi trong lĩnh
vực khoa học về du lịch ở các đặc điểm 4, 5 và 7. Nhấn mạnh mục
đích mới lạ và thay đổi như là động cơ của khách du lịch là quá hẹp.
Các đặc điểm 4 và 5 không phù hợp với thực tiễn phát triển của du lịch
hiện nay.
11
Hội nghị liên hợp quốc về du lịch tại Rome (1963) thống nhất
quan niệm về khách du lịch ở hai phạm vi quốc tế và nội địa, sau này
được Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) chính thức thừa nhận.
1. Khách du lịch quốc tế(International tourist): Là một người lưu
trú ít nhất một đêm nhưng không quá một năm tại một quốc
gia khác với quốc gia thường trú với nhiều mục đích khác nhau
ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến.
2. Khách du lịch nội địa (Domestic tourist): Là một người đang
sống trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một
nơi khác không phải là nơi cư trú thường xuyên trong quốc gia
đó, trong thời gian ít nhất 24 giờ và không quá một năm với
các mục đích có thể là giải trí, đi công việc, hội họp, thăm thân
nhân ngoài hoạt động làm việc để lĩnh lương ở nơi đến.
Quán triệt quan niệm của Tổ chức Du lịch Thế giới, trong Luật Du
lịch của Việt Nam có quy định: “Khách du lịch quốc tế là người nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch;
công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước
ngoài du lịch” và “khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người
nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ
Việt Nam”5.
5 Luật Du Uch. Điều 34, Chương V, NXB Chính trị Quốc gia, 2005.
1.1.2. Tiếp cận du lịch dưới góc độ là một ngành kỉnh tế
Cùng với sự phát triển của xã hội, du lịch phát triển từ hiện tượng
có tính đơn lẻ của một bộ phận nhỏ trong dân cư thành hiện tượng có
tính phổ biến và ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống của
mọi tầng lớp trong xã hội. Lúc đầu, người đi du lịch thường tự thoả
mãn các nhu cầu trong chuyến đi của mình, về sau, các nhu cầu đi lại,
ăn ở, giải trí... của khách du lịch đã trở thành một cơ hội kinh doanh và
du lịch lúc này được quan niệm là một hoạt động kinh tế nhằm thoả
mãn các nhu cầu của du khách. Một ngành kinh tế được hình thành
nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người trong chuyến đi rời khỏi nơi
cư trú thường xuyên - đó là ngành du lịch. Theo các học giả Mỹ
Mclntosh, Goeldner và Ritchie, du lịch là một ngành tổng hợp của các
12
lĩnh vực lữ hành, khách sạn, vận chuyển và tất cả các yếu tố cấu thành
khác kể cả xúc tiến quảng bá nhằm phục vụ các nhu cầu và mong
muốn đặc biệt của khách du lịch/Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch
năm 1971 cũng đi đến thống nhất cần phải quan niệm rộng rãi ngành
du lịch như là người đại diện cho tập hợp các hoạt động công nghiệp
và thương mại cung ứng toàn bộ hoặc chủ yếu các hàng hóa và dịch vụ
cho tiêu dùng của khách du lịch quốc tế và nội địa.
Như vậy, khi tiếp cận du lịch với tư cách là một hệ thống cung ứng
các yếu tố cần thiết trong các hành trình du lịch thì du lịch được hiểu
là một ngành kinh rê'cung ứng các hàng hóa và dịch vụ trên cơ sở kết
hợp giá trị các tài nguyên du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu và mong
muốn đặc biệt của du khách.
1.1.3. Tiếp cận du lịch một cách tổng hợp
Các quan niệm trên tiếp cận du lịch dưới góc độ một hiện tượng,
một hoạt động với các yếu tố tách biệt. Với cố gắng xem xét du lịch
một cách toàn diện hơn, các tác giả Mclntosh, Goeldner và Ritchie cho
rằng cần phải cân nhắc tất cả các chủ thể (thành phần) tham gia vào
hoạt động du lịch mới có thể khái niệm và hiểu được bản chất của du
lịch một cách đầy đủ. Các chủ thể (thành phần) đó bao gồm:
1. Khách du lịch: Đây là những người tìm kiếm các kinh nhiệm
và sự thoả mãn về vật chất hay tinh thần khác nhau. Bản chất
của du khách sẽ xác định các nơi đến du lịch lựa chọn và các
hoạt động tham gia, thưởng thức.
2. Các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa và dịch vụ du lịch: Các
nhà kinh doanh coi du lịch là một cơ hội để kiếm lợi nhuận
thông qua việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ nhằm đáp
ứng cho nhu cầu của thị trường khách du lịch.
3. Chính quyền sở tại: Những người lãnh đạo chính quyền địa
phương nhìn nhận du lịch như là một nhân tố có tác dụng tốt
cho nền kinh tế thông qua triển vọng về thu nhập từ các hoạt
động kinh doanh cho dân địa phương, ngoại tệ thu được từ
khách quốc tế và tiền thuế thu được cho ngân quỹ một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp.
13
4. Dân cư địa phương: Dân cư địa phương thường coi du lịch là
một nhân tố tạo ra việc làm và giao lưu văn hóa. Một điều quan
trọng cần nhấn mạnh ở đây là hiệu quả của sự giao lưu giữa số
lượng lớn du khách quốc tế và dân cư địa phương. Hiệu quả
này có thể vừa có lợi và vừa có hại.
Như vậy, để phản ánh một cách đầy đủ và toàn diện các hoạt động,
các mối quan hệ của du lịch, theo cách tiếp cận này, du lịch được hiểu là
tổng hợp các hiên tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ sự tác động qua
lại giữa khách du lịch, các nhà kình doanh, chính quyền và cộng đồng
dân cưđịa phương trong quá trình thu hút và tiếp đón khách du lịch.
Với cách tiếp cận này, khách du lịch là nhân vật trung tâm làm nảy
sinh các hoạt động và các mối quan hệ để trên cơ sở đó thoả mãn mục
đích của các chủ thể tham gia vào các hoạt động và các mối quan hệ đó.
Tóm lại, du lịch là một khái niệm có nhiều cách tiếp cận xuất phát từ
tính chất phong phú và sự phát triển của hoạt động du lịch. Chính vì vậy,
tùy thuộc vào từng mục đích nghiên cứu mà có thể sử dụng các quan
niệm đó một cách phù hợp. Với tư cách là một môn học chuyên môn cơ
sở, giáo trình này sử dụng khái niệm du lịch được tiếp cận một cách tổng
hợp làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu các nội dung tiếp theo.
1.2. Một sô khái niệm có liên quan
Để hiểu đầy đủ hơn về bản chất của du lịch, cần phân biệt một số
khái niệm có liên quan như du lịch với lữ hành, du lịch với khách sạn,
các khái niệm về khách như lữ khách, khách thăm, khách tham quan...
- Lữ hành (Travel): Theo nghĩa chung nhất là sự đi lại, di
chuyển từ nơi này đến nơi khác của con người. Như vậy, trong hoạt
động du lịch có bao gồm yếu tố lữ hành, nhưng không phải tất cả
các hoạt động lữ hành đều là du lịch. Ở Việt Nam, quan niệm lữ
hành là một lĩnh vực kinh doanh trong ngành du lịch liên quan đến
việc tổ chức các chuyến đi (các tour) cho du khách.
- Ngành khách sạn (Hospitality Industry): Với thuật ngữ bằng
tiếng Việt, khái niệm này chỉ được hiểu là lĩnh vực kinh doanh lưu trú
khách sạn trong ngành du lịch. Tuy nhiên, với thuật ngữ bằng tiếng
14
Anh thì nó có ý nghĩa rộng hơn nhiều. Khái niệm này được thừa nhận
rộng rãi là nó bao gồm hoạt động của tất cả các loại hình cơ sở phục
vụ lưu trú và ăn uống cho những người đi xa nhà. Có một số ít tác giả
khác lại cho rằng nội hàm của khái niệm này còn rộng hơn nữa. Nó
bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến sự đón tiếp và phục vụ một
người khách từ nơi khác đến. Như vậy, tồn tại hai quan điểm trái
ngược nhau: thứ nhất, ngành khách sạn (với nội hàm rộng) sẽ bao trùm
lên lĩnh vực du lịch, và thứ hai, khách sạn là một lĩnh vực hoạt động
(kinh doanh) trong ngành du lịch. Quan điểm thứ hai phổ biến ở nhiều
nước cũng như À Việt Nam. Ngoài ra, ở một số nước có hoạt động du
lịch phát triển tạo nên sự chuyên môn hóa cao các lĩnh vực phục vụ
khách du lịch thành các ngành riêng biệt như ngành công nghiệp
khách sạn, ngành công nghiệp lữ hành (du lịch), ngành công nghiệp
giải trí...
Trong công tác thống kê người ta thường phân biệt khách du
lịch với các loại khách khác và các đối tượng không phải là khách
du lịch (xem sơ đồ 1.1).
- Lữ khách (Traveller): Những người thực hiện một chuyến đi từ
nơi này đến nơi khác bằng bất cứ phương tiện gì, vì bất cứ lý do gì, có
hay không trở về nơi xuất phát lúc đầu.
- Khách thăm (Visitor): Những người thường được nhấn mạnh ở
tính chất tạm thời của việc ở lại một hoặc nhiều điểm đến, không xác
định rõ lý do của việc đi và thời gian chuyến đi nhưng có sự quay trở
về nơi xuất phát.
- Khách tham quan (Excursionist or Same Day Visitor): Những
người thăm viếng chốc lát, trong ngày, thời gian chuyến đi không
quá 24 giờ đổng hồ.
Những trường hợp ngoại lệ không được tính là khách du lịch:
người làm việc ở biên giới, di cư, du mục, tỵ nạn, hành khách quá
cảnh, lực lượng vũ trang, quân sự, đại diện ngoại giao, lãnh sự.
15