Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giáo trình   NHỮNG vấn đề cơ bản về CHỨNG KHOÁN và THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
PREMIUM
Số trang
456
Kích thước
1.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1994

Giáo trình NHỮNG vấn đề cơ bản về CHỨNG KHOÁN và THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

http://TinChungKhoan24h.Com

http://BanSimCu.Com

http://TraoDoiDoCu.Com

ỦY BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU

VÀ BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ CHỨNG KHOÁN

TS. Đào Lê Minh (Chủ biên)

Giáo Trình

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ

CHỨNG KHOÁN

VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ ĐIỆN TỬ SỐ 1

http://TinChungKhoan24h.Com

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

I. GIỚI THIỆU VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

1. Bản chất và chức năng của thị trường tài chính

1.1. Bản chất của thị trường tài chính

Trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn để đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh

từ những chủ thể khác nhau. Nhiều người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại

nhiều người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư. Do đó hình thành nên một cơ chế

chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện trong khuôn khổ thị trường

tài chính. Những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài

chính như cổ phiếu, trái phiếu. Những người có vốn dư thừa, thay vì đầu tư vào máy móc

thiết bị. nhà xưởng để sản xuất hàng hoá hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) vào các tài

sản tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn.

Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự luân chuyển vốn từ những người có vốn

nhàn rỗi tới những người thiếu vốn.

Thị trường tài chính cũng có thể định nghĩa là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài

chính.

Hoạt động trên thị trường tài chính có những hiệu ứng trực tiếp tới sự giàu có của

các cá nhân, tới hành vi của các doanh nghiệp và người tiêu dùng, và tới động thái chung

của toàn bộ nền kinh tế.

1.2. Chức năng của thị trường tài chính

a. Dẫn vốn từ những nơi thừa vốn sang những nơi thiếu vốn

Đây là chức năng kinh tế chủ yếu của thị trường tài chính. Thông qua hoạt động

của các chủ thể trên thị trường, các nguồn tài chính được luân chuyển để cung và cầu về

vốn gặp nhau. Quá trình luân chuyển vốn trên thị trường tài chính làm tăng quá trình

chuyển các nguồn tiết kiệm thành đầu tư. Quá trình luân chuyển vốn được thể hiện qua sơ

đồ sau đây:

(Sơ đồ)

Bên trái của sơ đồ là những người tiết kiệm và cho vay vốn: Bên phải là những

người phải đi vay vốn để tài trợ cho chi tiêu. Người tiết kiệm - cho vay chủ yếu là các hộ

gia đình, tuy nhiên, các doanh nghiệp và chính phủ, và người nước ngoài đôi khi cũng có

tiền dư thừa và đem cho vay số tiền đó. Người đi vay - chi tiêu quan trọng nhất là các

doanh nghiệp và chính phủ, song hộ gia đình và người nước ngoài đôi khi cũng đi vay để

mua sắm ôto, đồ dùng và nhà ở. Các mũi tên cho thấy các dòng vốn chạy từ người tiết

kiệm - cho vay sang người đi vay - chi tiêu qua hai kênh.

Ở kênh tài chính gián tiếp, các chủ thể thừa vốn không trực tiếp cung ứng vốn cho

người thiếu vốn mà gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như các ngân hàng, các tổ

chức nhận tiền gửi tiết kiệm và cho vay, các công ty bảo hiểm hay các tồ chức tài chính tín

dụng khác.

Ở kênh tài chính trực tiếp, các chủ thể dư thừa vốn trực tiếp chuyển vốn cho các

chủ thể thiếu vốn (người tiêu dùng, người đầu tư) bằng cách mùa các tài sản tài chính trực

tiếp do các chủ thể thiếu vốn phát hành thông qua các thị trường tài chính.

Như vậy, chính thị trường tài chính đã giúp cho nguồn vốn vận động từ nơi thừa

vốn đến nơi thiếu vốn, giúp cho quá trình giao lưu vốn được nhanh chóng và hiệu quả.

Nhờ đó tận dụng được các nguồn vốn lẻ tẻ, tạm thời nhàn rỗi đưa vào sản xuất, kinh

doanh, đầu tư xây dựng nhằm đem lại lợi ích cho các đối tác tham gia thị trường, đồng thời

phục vụ nhu cầu phát triển của toàn bộ nền kinh tế.

b. Hình thành giá của các tài sản tài chính

Thông qua sự tác động qua lại giữa người mua và người bán, giá của các tài sản tài

chính được xác định, hay nói cách khác, lợi tức cần phải có trên một tài sản tài chính được

xác định. Yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp gọi vốn chính là mức lợi tức mà các nhà đầu

tư yêu cầu; và chính đặc điểm này của thị trường tài chính đã phát tín hiệu cho biết vốn

trong nền kinh tế cần được phân bổ như thế nào giữa các tài sản tài chính. Quá trình đó

được gọi là quá trình hình thành giá.

c. Tạo tính thanh khoản cho tài sản tài chính

Thị trường tài chính tạo ra một cơ chế để các nhà đầu tư có thể bán tài sản tài chính

của mình. Chính nhờ vào đặc điểm này mà người ta nói rằng thị trường tài chính tạo ra tính

thanh khoản cho nền kinh tế. Nếu thiếu tính thanh khoản, người đầu tư sẽ buộc phải nắm

giữ các công cụ nợ cho tới khi đáo hạn, hoặc nắm giữ các công cụ vốn cho tới khi công ty

phá sản phải thanh lý tài sản. Mặc dù tất cả các thị trường tài chính đều có tính thanh

khoản, song mức độ thanh khoản giữa các thị trường lại khác nhau.

d. Giảm thiểu chi phí tiếp kiệm và chi phí thông tin

Để cho các giao dịch có thể diễn ra, những người mua và những người bán cần

phải tìm được nhau; muốn thế, họ cần phải tiêu tốn tiền và thời gian cho việc quảng cáo ý

đồ của mình và tìm kiếm đối tác. Đó là những chi phí tìm kiếm. Bên cạnh đó là các chi phí

thông tin gắn liền với việc nhận định các giá trị dầu tư của một công cụ tài chính, tức là

khối lượng và tính chắc chắn của dòng tiền dự kiến thu được từ đầu tư. Nhờ tính tập trung,

khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch lớn, thông tin được cung cấp đầy đủ và nhanh

chóng, thị trường tài chính cho phép giảm thiểu những chi phí này.

e.Ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ

Bên cạnh các chức năng kể trên, thị trường tài chính còn có chức năng ổn định và

điều hoà lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.

Thông qua việc mua bán các trái phiếu, tín phiếu chính phủ của ngân hàng trung

ương trên thị trường tài chính, chính phủ có thể tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân

sách và kiểm soát lạm phát.

Ngân hàng trung ương cũng có thể mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để

điều chỉnh lượng cung và cầu ngoại tệ nhằm giúp chính phủ ổn định tỷ giá hối đoái.

2. Cấu trúc của thị trường tài chính

Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân loại thị trường tài chính

theo nhiều cách khác nhau:

2.1. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn

Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được chia thành thị

trường tiền tệ và thị trường vốn.

Thị trường tiền tệ

Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán, trao đổi các công cụ tài chính ngăn hạn

(thường có thời hạn dưới 1 năm).

Thông qua thị trường tiền tệ, các nguồn vốn nhàn rỗi được chuyển từ những nơi

thừa vốn sang những nơi thiếu vốn và có nhu cầu đầu tư, góp phần tăng hiệu quả phân bổ

nguồn lực của xã hội. Thị trường tiền tế còn là nơi để ngân hàng trung ương thực thi

nghiệp vụ thị trường mở nhằm kiểm soát lượng tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại

và điều tiết lượng tiền cung ứng.

Thị trường tiền tệ có một số đặc trưng cơ bản sau:

- Các công cụ của thị trường tiền tệ có thời gian đáo hạn trong vòng một năm nên

có tính thanh khoản cao, độ rủi ro thấp và hoạt động tương dối ổn định.

- Hoạt động của thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu trên thị trường tín dụng do đó giá

cả hình thành trên thị trường này được biểu hiện thông qua lãi suất tín dụng ngân hàng.

Thị trường tiền tệ bao gồm thị trường liên ngân hàng, thị trường chứng khoán ngắn

hạn, thị trường ngoại hối, thị trường tín dụng...

Thị trường tín dụng bao gồm các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, đó

là hoạt động huy động vốn và cho vay vốn ngắn hạn.

Thị trường liên ngân hàng hoạt động nhằm giải quyết nhu cầu vôn tín dụng giữa

các ngân hàng với nhau trước khi ngân hàng thương mại đi vay chiết khấu tại ngân hàng

trung ương.

Thị trường chứng khoán ngắn hạn là nơi thực hiện các giao dịch mua bán, chuyển

nhượng và trao đổi các giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng,

chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.

Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán, chuyển nhượng, vay và

cho vay bằng ngoại tệ. Thị trường ngoại hối là một bộ phận quan trọng của thị trường tiền

tệ, sự tác động qua lại giữa cung và cầu trên thị trường này sẽ hình thành và ảnh hưởng đến

tỷ giá hối đoạt, một trong các biến số quan trọng của nền kinh tế.

Thị trường vốn

Thị trường vốn là thị trường mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài

hạn (thường có thời hạn trên 1 năm). So với các công cụ trên thị trường tiền tệ, các công cụ

trên thị trường vốn có tính thanh khoản kém hơn và độ rủi ro cao hơn, do đó chúng có mức

lợi tức cao hơn.

Vai trò chủ yếu của thị trường vốn là cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư dài

hạn của chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình. Thị trường vốn bao gồm thị trường chứng

khoán, thị trường vay nợ dài hạn, thị trương tín dụng thuê mua, thị trường cầm cố, thị

trường bất động sản…

2.2. Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần

Căn cứ vào cách thức huy động vốn, thị trường tài chính được chia ra thành thị

trường nợ và thị trường vốn cổ phần.

Thị trường nợ

Thị trường nợ là thị trường mua bán các công cụ nợ như trái phiếu, các khoản

cho vay,...

Thị trường nợ có đặc trưng là các công cụ giao dịch đều có kỳ hạn nhất định, có thể

là ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn tuỳ theo cam kết nợ giữa chủ nợ và người mắc nợ. Sự

hoạt động trên thị trường nợ phụ thuộc rất lớn vào biến động của lãi suất ngân hàng.

Thị trường vôn cổ phần

Thị trường vốn cổ phần là thị trường mua bán các cổ phần của công ty cổ phần.

Đặc trưng của thị trường này là các công cụ trên thị trường này không có kỳ hạn mà chi có

thời điểm phát hành, không có ngày mãn hạn.

Người mua cổ phiếu chỉ có thể lấy lại tiền bằng cách bán lạn cổ phiếu trên thị

trường hoặc khi công ty tuyên bố phá sản. Khác với thị trường nợ, hoạt động của thị

trường vốn cổ phần chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần.

2.3. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp

Căn cứ vào tỉnh chất của việc phát hành các công cụ tài chính, thị trường tài chính

được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.

Thị trường sơ cấp

Thị trường sơ cấp là thị trường trong đó các công cụ tài chính được phát hành lần

đầu và được bán cho người đầu tiên mua chúng. Do là phát hành lần đầu nên thị trường

này còn được gọi là thị trường cấp một.

Thị trường này ít quen thuộc với công chúng đầu tư vì việc bán chứng khoán tới

những người mua đầu tiên được tiến hành theo những thoả thuận riêng với sự trợ giúp chủ

yếu của các định chế tài chính làm nhiệm vụ bảo lãnh phát hành.

Thị trường thứ cấp

Thị trường thứ cấp là thị trường giao địch các công cụ tài chính sau khi chúng đã được

phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp còn được gọi là thị trường cấp hai.

Hoạt động trên thị trường thứ cấp diễn ra trong phạm vi rộng hơn với tổng mức lưu

chuyển vốn lớn hơn rất nhiều so với thị trường sơ cấp. Tuy nhiên việc mua bán chứng

khoán trên thị trường này không làm thay đổi nguồn vốn của tổ chức phát hành mà chỉ

chuyển vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác.

Thị trường thứ cấp hoạt động làm cho các công cụ tài chính có tính lỏng cao hơn và

do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trên thị trường sơ cấp. Vì vậy, có thể nói

thị trường thứ cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường sơ cấp.

3. Các công cụ của thị trường tài chính

3.1. Các công cụ của thị trường tiền tệ

Do có thời gian đáo hạn ngắn nên các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường

tiền tệ có đặc điểm chung là dao động giá thấp và độ rủi ro thấp.

Các công cụ chủ yếu của thị trường tiền tệ bao gồm:

Tín phiếu kho bạc

Là một công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ do kho bạc nhà nước phát hành,

thường được phát hành theo định kỳ 3 tháng, 6 tháng, hoặc 9 tháng. Mặc dù lãi suất tín

phiếu kho bạc thường thấp hơn các công cụ nợ khác nhưng nó rất được ưa chuộng trên thị

trường tiền tệ do tính an toàn và tính thanh khoản cao, dễ dàng chuyển nhượng trên thị

trường thứ cấp.

Tín phiếu kho bạc là công cụ nắm giữ chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Các

ngân hàng này đầu tư nguồn vốn đóng băng vào tín phiếu kho bạc để thu lợi tức và quan

trọng hơn, dùng nó như tiền dự trữ cấp hai, tức chuyển thành tiền mặt bất cứ lúc nào để

giải quyết khó khăn tài chính của ngân hàng.

Ngân hàng trung ương cũng có thể sử dụng công cụ này để thực hiện nghiệp vụ thị

trường mở nhăm điều chỉnh lượng tiền cung ứng ra lưu thông và kiểm soát thị trường tín

dụng.

Thương phiếu

Thương phiếu hay còn gọi là kỳ phiếu thương mại là một loại giấy nhận nợ đặc biệt

người giữ nó có quyền đòi tiền khi đến hạn. Thương phiếu bao gồm:

- Hối phiếu: là phiếu ghi nợ do người bán hàng trả chậm ký phát trao cho người

mua hàng trả chậm trong đó yêu cầu người mua phải trả một số tiền nhất định khi đến hạn

cho người bán hoặc bất cứ người nào xuất trình hối phiếu này (người thụ hưởng).

- Lệnh phiếu: là giấy nhận nợ do người mua hàng trả chậm ký phát trao cho người

bán hàng trả chậm trong đó người mua cam kết trả một số tiền nhất định khi đến hạn cho

người thụ hưởng.

- Chứng chỉ lưu kho: là giấy do một công ty kinh doanh kho bãi ký phát, thừa nhận

có giữ hàng hoá cho người chủ hàng ký gửi và cam kết giao hàng cho chủ hàng hay một

người nào đó do chủ hàng chỉ định bằng cách ký hậu.

Các chứng chỉ tiên gửi có thể chuyển nhượng

Là giấy chứng nhận về việc gửi tiền và là một công cụ vay nợ của ngân hàng đối

với người gửi tiền. Trên chứng chỉ qui định người sở hữu nó sẽ nhận được một khoản tiền

lãi định kỳ và nhận đủ số vốn khi đáo hạn. Người nắm giữ chứng chỉ này không được rút

tiền trước khi đến hạn mà chỉ có thể thu hồi tiền bằng cách bán lại trên thị trường thứ cấp.

Chứng chỉ tiền gửi là một công cụ quan trọng trong việc tạo nguồn vốn hoạt động và đảm

bảo tính thanh khoản cho ngân hàng.

Chấp phiếu ngân hàng

Là giấy do một công ty phát hành, bảo đảm rằng một ngân hàng sẽ thanh toán vô

điều kiện một khoản tiền nhất định vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người

nắm giữ giấy này. Công ty trước khi phát hành công cụ này buộc phải gửi vào tài khoản

ngân hàng một khoản tiền tương ứng với lượng tiền ghi trên chấp phiếu. Người nắm chấp

phiếu ngân hàng cũng có thể chiết khấu lại trên thị trường để thu tiền trước. Lãi suất của

công cụ này tương đối thấp do tính an toàn cao.

3.2. Các công cụ trên thị trường vốn

Các công cụ trên thị trường vốn bao gồm các công cụ vốn và các công cụ nợ có

thời gian đáo hạn trên một năm. Loại công cụ này có biến động giá mạnh hơn và tính thanh

khoản thấp hơn các công cụ trên thị trường tiền tệ và được coi là những khoản đầu tư khá

rủi ro. Những loại công cụ chính là cổ phiếu (công cụ vốn) và trái phiếu (công cụ nợ).

Ngoài ra còn có các công cụ chuyển đổi hoặc các công cụ phát sinh.

Cổ phiếu: là giấy Chứng nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập

và tài sản của một công ty cổ phần. Cổ phiếu bao gồm nhiều loại khác nhau như cổ phiếu

thường, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi dự phần...

Trái phiếu: là giấy chứng nhận việc vay vốn của một chủ thể (chủ thể phát hành)

đối với một chủ thể khác (chủ thể cho vay vốn). Trên trái phiếu quy định hàng kỳ chủ thể

phát hành phải trả cho người nắm giữ trái phiếu một khoản tiền nhất định (lãi tức trái

phiếu) và tới thời điểm đáo hạn phải hoàn trả khoản vốn cho vay ban đầu. Có nhiều loại

trái phiếu khác nhau như trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị, trái

phiếu có thể chuyển đổi...

Các khoản tín dụng cầm cố: là các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp hoặc

các hộ gia đình để mua nhà ở, đất đai. bất động sản và dùng chính các tài sản này làm thế

chấp cho khoản vốn vay.

Các khoản tín dụng thương mại: là các khoản cho vay trung, dài hạn của các ngân

hàng thương mại hoặc các công ty tài chính cho người tiêu dùng hoặc các doanh nghiệp có

nhu cầu vay vốn. Các khoản tín dụng này trường không được giao dịch mua bán trên thị

trường thứ cấp nên tính thanh khoản rất thấp.

Chứng chỉ quỹ đầu tư: là một loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ đại diện

cho một quỹ đầu tư chứng khoán phát hành, xác nhận quyền hưởng lợi của người đầu tư

đối với quỹ.

4. Các trung gian tài chính

Trung gian tài chính là những tổ chức làm cầu nối giữa những người cần vốn và

những người cung cấp vốn trên thị trường. Trung gian tài chính, dù thuộc loại hình nào đi

nữa, đều có chung một đặc điểm là phát hành các công cụ tài chính để thu hút vốn. Mức

chênh lệch mà người trung gian nhận được giữa lãi suất cho vay (hay lợi tức đầu tư) với lãi

suất huy động vốn chính là chí phí trung gian hay hoa hồng trung gian. Khi những người

có vốn ký thác số vốn của mình vào các trung gian tài chính, khoản đầu tư của họ là đầu tư

gián tiếp; còn khi trung gian tài chính đầu tư số vốn này, khoản đầu tư đó là đầu tư trực

tiếp.

4.1. Các loại hình trung gian tài chính

Các tổ chức trung gian tài chính gồm ba nhóm chính: các tổ chức nhận tiền gửi

(ngân hàng), các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng và các trung gian đầu tư.

a. Các tổ chức nhận tiền gửi

Đây là các tổ chức tài chính trung gian lớn nhất trên thị trường tài chính xét theo

phạm vi hoạt động và khả năng về vốn. Các tổ chức này huy động vốn bằng cách mở tài

khoản séc và tài khoản tiết kiệm cho khách hàng, đồng thời sử dụng số vốn huy động được

để cho vay theo nhiều hình thức khác nhau hoặc đầu tư vào chứng khoán. Thu nhập của

các tổ chức này đến từ hai nguồn: thu nhập từ các khoản cho vay và mua chứng khoán; và

thu nhập từ các khoản phí.

Các tổ chức nhận tiền gửi bao gồm các ngân hàng thương mại, các hiệp hội tiết

kiệm và cho vay (S&Ls), các ngân hàng tiết kiệm và các liên hiệp tín dụng.

b. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng

Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng như công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí là các

trung gian tài chính huy động vốn dựa trên cơ sở hợp đồng theo định kỳ. Các tổ chức này

có thể dự đoán tương đối chính xác khoản tiền họ sẽ thanh toán trong những năm tới nên

không phải lo lắng về việc thiếu vốn như các tổ chức nhận tiền gửi. Do đó, các tổ chức này

có thể đầu tư các loại chứng khoán dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu công ty, các khoản cho

vay cầm cố.

Công ty bảo hiểm

Công ty bảo hiểm là những trung gian tài chính đảm nhận việc thực hiện một khoản

thanh toán mỗi khi có một sự kiện xảy ra, với một khoản đóng góp trước đó của người muốn

thụ hưởng quyền lợi này. Công ty bảo hiểm huy động vốn từ các khoản đóng góp của những

người tham gia hợp đồng bảo hiểm và sử dụng phần lớn số tiền huy động được để mua trái

phiếu. Các công ty bảo hiểm cũng có thể đầu tư vào cổ phiếu song số lượng rất hạn chế vì họ

ngại tính rủi ro cao của cổ phiếu. Thu nhập của công ty bảo hiểm chủ yếu là các khoản phí,

ngoài ra còn có các khoản lợi tức đầu tư từ các công cụ tài chính.

Quỹ hưu trí

Quỹ hưu trí được thiết lập để thanh toán những khoản lợi ích của những người lao

động khi họ về hưu. Thành lập ra những quỹ này là các doanh nghiệp tư nhân; các cơ quan

nhà nước hoặc địa phương; các nghiệp đoàn lao động nhân danh thành viên của mình, và

cuối cùng là các cá nhân có nhu cầu.

Đặc điểm của quỹ này là nó liên quan đến việc đầu tư vào một tài sản rất kém tính

thanh khoản, đó là hợp đồng về tiền hưu trí. Tài sản này không được đem sử dụng, dù chỉ

là để thế chấp cho một khoản vay cho đến khi về hưu. Tuy nhiên, lợi thế của các quỹ này là

các khoản đóng góp của các ông chủ, và một khối lượng nhất định đóng góp của người lao

động, cũng như thu nhập từ tài sản của quỹ, được phép đóng thuế chậm. Về thực chất, quỹ

hưu trí là một hình thức trả công của ông chủ mà người làm công không bị đánh thuế cho

đến khi rút số tiền này. Nó có tác dụng khuyến khích những người làm công ở lại với

doanh nghiệp.

c. Các trung gian đầu tư

Các trung gian đầu tư bao gồm các công ty tài chính, quỹ tương hỗ và quỹ tương hỗ

thị trường tài chính.

Công ty tài chính

Công ty tài chính huy động vốn băng cách bán các thương phiếu hoặc phát hành cổ

phiếu, trái phiếu. Sau đó, công ty sử dụng số vốn này cho người tiêu dùng vay để mua sắm

nhà cửa, trang thiết bị, xe hơi... Một số công ty tài chính được một công ty mẹ thành lập để

bán tài sản của công ty mình. Chẳng hạn, công ty tín dụng Ford có thể cho khách hàng vay

để mua ôtô Ford.

Quỹ tương hỗ

Đây là một loại hình trung gian tài chính, huý động vốn bằng cách bán chứng chỉ

quỹ cho các cá nhân và dùng vốn đó để đầu tư vào danh mục cổ phiếu và trái phiếu đã

được đa dạng hoá. Các quỹ tương hỗ thường được quản lý bởi một công ty quản lý quỹ.

Một công ty quản lý quỹ có thể quản lý nhiều quỹ khác nhau để đa dạng hoá đầu tư do mỗi

quỹ thường chỉ tập trung đầu tư vào một số loại chứng khoán nhất định.

Quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ

Thể chế tài chính tương đối mới này mang các đặc trưng của quỹ tương hỗ nhưng

được phép mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng. Giống như hầu hết các quỹ tương hỗ, tổ

chức này được phép bán cổ phiếu để huy động vốn đồng thời sử dụng số vốn này để mua

các công cụ an toàn và có tính thanh khoản cao trên thị trường tiền tệ. Lãi suất của các tài

sản này sẽ được thanh toán định kỳ cho cổ đông.

Trên đây là một số loại hình trung gian tài chính phổ biến. Mặc dù phương thức

hoạt động cụ thể của tổ chức này là khác nhau song chúng thể hiện rất rõ vai trò trung gian

tài chính được đề cập dưới đây.

4.2. Vai trò của các trung gian tài chính

a. Chuyển đổi thời gian đáo hạn của các công cụ tài chính

Có thể nhận thấy chức năng này rõ nhất thông qua hoạt động của các tổ chức nhận

tiền gửi, chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Nhờ có các trung gian tài chính, cả người

đầu tư (người gửi tiền) và người đi vay đều có thể lựa chọn dược những thời hạn thích hợp

với mục tiêu của mình.

b. Giảm thiểu rủi ro bằng cách đa dạng hoá đầu tư

Loại hình trung gian tài chính càng phong phú, các sản phẩm tài chính do chúng tạo

ra càng đa dạng. Khi các nhà đầu tư đặt tiền của họ vào các công ty đầu tư, những công ty

này có thể dầu tư số tiền đó vào, chẳng hạn, cổ phiếu của một số lớn các công ty. Bằng

cách đó, công ty đầu tư đã đa dạng hoá việc đầu tư và giảm thiểu được rủi ro của nó. Điều

này chỉ có thể thực hiện dược với diều kiện có dược một khối lượng tiền đủ lớn; và nó giải

thích vì sao việc đa dạng hoá đầu tư, tức biến những tài sản nhiều rủi ro thành những tài

sản ít rủi ro hơn, lại là ưu thế của các trung gian tài chính và rộng hơn, là lợi ích kinh tế

quan trọng của các thị trường tài chính.

c Giảm thiểu chi phỉ hợp đồng và chi phí xử lý thông tin

Những nhà đầu tư vào các tài sản tài chính phải có được những kỹ năng cần thiết

để đánh giá một khoản dầu tư phân tích khả năng lợi nhuận, mức độ rủi ro của từng tài sản

tài chính cũng như của toàn bộ khoản mục đầu tư để từ đó ra quyết định mua hoặc bán các

tài sản tài chính. Tuy nhiên, các nhà đầu tư cá nhân thường không có điều kiện để phát

triển những kỹ năng này, cả về mặt thời gian và kiến thức. Họ thường phải thuê người viết

hợp đồng, làm phát sinh chi phí hợp đồng. Bên cạnh đó, để xác nhận mức độ tin cậy và xử

lý những thông tin thu thập dược về tài sản tài chính và về người phát hành tài sản đó, nhà

đầu tư cũng phải bỏ ra một khoảng thời gian và chi phí nhất định, được gọi là chi phí xử lý

thông tin.

Các trung gian tài chính, với tư cách là các nhà đầu tư chuyên nghiệp, có thể giảm

thiểu tất cả những chi phí đó do ưu thế về tính tập trung, chuyên môn hoá và quy mô đầu

tư lớn hơn.

d. Cung cấp một cơ chế thanh toán

Ngày nay đa số các giao dịch được thực hiện mà không dùng tiền mặt. Việc thanh

toán có thể sử dụng séc, thẻ tín dụng, hoặc việc chuyển tiền điện tử. Một số trung gian tài

chính sẽ đảm nhiệm việc cung cấp những phương thức thanh toán này.

Trước đây, việc thanh toán không dùng tiền mặt chỉ được giới hạn ở các tài khoản

vãng lai có thể ký séc tại các ngân hàng thương mại, sau đó được mở rộng ra các hiệp hội

tín dụng, và một số công ty đầu tư. Thanh toán bằng thẻ tín dụng trước đây cũng chỉ được

thực hiện tại các ngân hàng thương mại nhưng giờ dây các tổ chức nhận tiền gửi công cung

cấp dịch vụ này. Như vậy, việc thanh toán không dùng tiền mặt đã trở thành một trong các

chức năng quan trọng của trung gian tài chính.

5. Mối quan hệ giữa các bộ phận của thị trường tài chính

Qua nghiên cứu về cấu trúc của thị trường tài chính, người ta có thể nhận thấy giữa

các thị trường cấu thành có mối quan hệ chặt chẽ và biện chứng với nhau. Những biến

động trên thị trường này sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các thị trường khác. Khi

nền kinh tế phát triển, thị trường tài chính ngày càng trở nên tinh vi và phức tạp, ranh giới

truyền thống giữa các công cụ tài chính hay giữa các loại thị trường ngày càng mang tính

tương đối. Các công cụ tài chính được lưu thông đan xen giữa các loại thị trường và được

chuyển hoá lẫn nhau. những công cụ mới không ngừng ra đời, trong đó có nhiều loại công

cụ hỗn hợp mang những đặc trưng của nhiều loại công cụ khác nhau. Do đó các bộ phận

của thị trường tải chính càng trở nên gắn bó chặt chẽ với nhau. Dưới đây sẽ trình bày một

số quan hệ tồn tại hiện nay trên thị trường tài chính.

Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối.

Thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ có quan hệ khăng khít với nhau, không có

thị trường nào hoạt động một cách độc lập tuyệt đối mà chúng tác động qua lại và chi phối

lẫn nhau. Một biến động trên thị trường tiền tệ đều dẫn dấn những thay đổi trên thị trường

ngoại hối. Các mối quan hệ hình thành giữa hai thị trường này chủ yếu thông qua hai biến

số cơ bản: lãi suất và tỷ giá. Sự biến động của lãi suất trên thị trường tiền tệ có thể tác động

dấn các luồng vốn di chuyển giữa hai thị trường này, ảnh hưởng tới mối quan hệ cung -

cầu về ngoại tệ, làm tỷ giá hôi đoái trên thị trường ngoại hối thay đổi. Để minh hoạ cho

mối quan hệ này có thể xem xét một thực tế như sau: Cho tới tháng 6 năm 2000, trong

vòng hơn một năm, Cục dự trữ Liên bang Mỹ đã liên tục 6 lần tăng lãi suất. Theo một phản

ứng dây chuyền, Ngân hàng trung ương châu Âu cũng nâng lãi suất và lãi suất trên thị

trường liên ngân hàng theo đó tăng lên. Chịu ảnh hưởng của xu hướng này, các ngân hàng

thương mại Việt Nam cũng từng bước nâng lãi suất huy động ngoại tệ tăng nên đã có một

khối lượng khá lớn tiền gửi VND được rút ra khỏi tài khoản ngân hàng để mua ngoại tệ

trên thị trường và sau đó lại được gửi vào ngân hàng bằng USD để hưởng phần lãi suất cao

hơn. Vốn huy động ngoại tệ tăng mạnh ở một số ngân hàng thương mại. Mặt khác, mặc dù

lãi suất huy động USD đã được nâng lên song vẫn thấp hơn lãi suất USD trên thị trường

quốc tế (chênh lệch vào khoảng 1,4 - 1,8% vào thời điểm đầu năm 2000), khiến cho việc

huy động ngoại tệ trong nước và chuyển ra nước ngoài để hưởng lãi suất cao hơn trở thành

một hoạt động sinh lời hấp dẫn đối với các ngân hàng thương mại. Nhu cầu ngoại tệ trên

thị trường ngoại hối vì vậy gia tăng nhanh chóng và do đó tỷ giá có xu hướng bị đẩy lên.

Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán

Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán được thể hiện thông

qua sự tác động của lãi suất và tỷ giá hối đoái lên giá cả chứng khoán.

Tỷ giá hối đoái là nhân tố tác động mạnh mẽ tới quyết định đầu tư trên thị trường

chứng khoán. Khi các nhà đầu tư vào chứng khoán và sẽ thay thế bàng tài sản ngoại tệ vì

chứng khoán chính là tiền, nếu tiền mất giá thì giá trị chứng khoán sẽ bị giảm. Các nhà đầu

tư này có thể sẽ chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Như vậy, tác động của tỷ giá hối đoái đã

làm dịch chuyển đầu tư từ thị trường chứng khoán sang thị trường hối đoái hoặc ngược lại.

Lãi suất thị trường là nhân tố tác động trực tiếp tới giá cả chứng khoán thông qua

việc thay đổi mức lợi suất yêu cầu của các nhà đầu tư khi chấp nhận đầu tư vào chứng

khoán đó. Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu thay đổi lãi suất chiết khấu và lãi suất tái chiết

khấu từ ngân hàng trung ương thì lập tức sẽ ảnh hưởng tới lượng tiền cung ứng và tác động

tới cung tín dụng từ phía ngân hàng thương mại, đồng thời cũng tác động tới giá cả chứng

khoán. Tuy nhiên, mức độ tác động của lãi suất vào giá cả trái phiếu và cổ phiếu lại khác

nhau. Lãi suất tác động trực tiếp tới giá trái phiếu, khi lãi suất chiết khấu tăng (hoặc giảm)

thì giá trái phiếu trên thị trường sẽ giảm (hoặc tăng). Còn đối với cổ phiếu, quan hệ giữa lãi

suất và giá không phải là mối quan hệ trực tiếp và hoàn toàn một chiều. Mức độ ảnh hưởng

của lãi suất lên giá cổ phiếu phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra thay đổi đó và mức độ tác

động của thay đổi này lên dòng thu nhập tương lai của cổ phiếu. Tuy nhiên, qua nghiên

cứu cho thấy mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu thường là ngược chiều do khi lãi

suất thị trường tăng, giá trái phiếu giảm thì người đầu tư có xu hướng chuyển từ đầu từ cổ

phiếu sang trái phiếu khiến cho giá cổ phiếu giảm và ngược lại.

Tóm lại, quá trình lưu chuyển vốn trên thị trường tài chính thể hiện ở sơ đồ lưu

chuyển tiền tệ sau đây:

SƠ ĐỒ (LƯU CHUYỂN VỐN TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH)

Qua sơ đồ trên ta thấy được mức độ phát triển của thị trường tài chính có ý nghĩa

quan trọng đối với việc khuyến khích tiết kiệm, khuyến khích đầu tư và thúc đẩy quá trình

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!