Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giáo trình -Môi trường và phát triển -chương 2 pdf
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
11
Chương 2
DÂN SỐ VÀ MÔI TRƯỜNG
I. Các thông số cơ bản của dân số học
Các thông số cơ bản của dân số học là tỷ lệ sinh (birth rate, natality), tỷ lệ tử (death
rate, mortality) và tỷ lệ tăng dân số (growth rate).
1. Tỷ lệ sinh: là số lượng con sinh ra trên 1000 người dân trong 1 năm. Số con thì tính
cho cả năm, còn dân số thì lấy số liệu vào giữa năm tính.
2. Tỷ lệ tử: là số người chết tính trên 1000 người dân trong 1 năm.
3. Tỷ lệ tăng dân số: là hiệu số giữa tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử (r = b - d). Lưu ý rằng tỷ lệ
tăng dân số r tính trên 1000 người dân. Các nhà dân số học còn dùng một thuật ngữ khác mà
ta cần tránh nhầm lẫn là % tăng dân số hàng năm. Nó được tính là số lượng dân gia tăng hàng
năm trên 100 người dân.
Đánh giá mức gia tăng dân số thế giới vào những năm 1970 có tỷ lệ sinh là 32/1000
người dân năm; tỷ lệ tử là 13/1000 người dân năm, như thế tỷ lệ tăng dân số tương ứng là (32-
13)/1000 hay 19/1000 người dân/năm tức là 1,9%/năm.
Có một mối tương quan giữa phần trăm tăng dân số hàng năm và thời gian tăng gấp
đôi dân số.
Bảng 2.1. Mối tương quan giữa % tăng dân số hàng năm và thời gian tăng gấp đôi dân số.
Phần trăm tăng dân số Thời gian tăng gấp đôi dân số
0,5 140
0,8 87
1,0 70
2,0 35
3,0 23
4,0 17
Qua bảng trên chúng ta có thể thấy rằng, thời gian tăng gấp đôi dân số thực tế thường
nhanh hơn so với lý thuyết. Điều này do các cá thể sau khi được sinh ra, sau đó sẽ tham gia
vào quá trình sinh sản, vì vậy làm cho thời gian gấp đôi dân số tăng nhanh lên.
Các tỷ lệ sinh, tử như đã nói ở trên đây được các nhà dân số học gọi là tỷ lệ sinh, tử
thô (crude birth rate, crude death rate). Gọi là thô vì nó không thông tin gì về sự khác nhau
giữa các nhóm tuổi. Tỷ lệ sinh, tử thô rất dễ thu thập từ các thống kê dân số học. Mặc dù vẫn
được sử dụng nhưng dùng nó để phân tích dễ bỏ qua nhiều điều quan trọng. Do vậy, các nhà
dân số học đưa thêm một số chỉ số nữa đó là:
+ Tỷ lệ sinh sản chung GFR (General Fertility Rate): thông số này chỉ số lượng
con đẻ ra của 1.000 phụ nữ ở độ tuổi từ 15 - 44, tức là nhóm tuổi sinh đẻ của nữ giới. Chỉ số
này phản ảnh cụ thể và rõ ràng hơn về mức độ gia tăng dân số. Trung bình một phụ nữ ở
Châu Âu chỉ có 1 đến 2 con, ở Châu Á 4 - 5 con, còn ở Châu Phi và Mỹ La tinh có đến 6 - 8
con.
Một dân số ổn định là một dân số khi tỷ lệ sinh, tử và thành phần tuổi không thay đổi
với thời gian. Dân số này vẫn có thể tăng, giảm hoặc giữ nguyên số lượng hay đứng yên.
Muốn cho dân số đứng yên thì tỷ lệ sinh bằng tỷ lệ tử. Trường hợp này còn được gọi là dân số
tăng trưởng không ZPG (Zero Population Growth).