Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giáo trình giới thiệu các tác phẩm kinh điển triết học
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC HUẾ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
-------------------------------------------
HOÀNG NGỌC VĨNH
GIÁO TRÌNH
GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN TRIẾT
HỌC
Nhà xuất bản Đà Nẵng
1
ĐẠI HỌC HUẾ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
THS. GVC HOÀNG NGỌC VĨNH
GIÁO TRÌNH
GIỚI THỆU CÁC TÁC PHẨM
KINH ĐIỂN TRIẾT HỌC
NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG -2005
2
GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN TRIẾT HỌC
THS.GVC HOÀNG NGỌC VĨNH
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc: VÕ VĂN ĐÁNG
Tổng biên tập: NGUYỄN ĐỨC HÙNG
Biên tập: NGUYỄN KIM HUY
Bìa và trình bày: TIẾN LINH
In 1.000 cuốn, khổ 16x24 cm tại Công ty cổ phần in Thừa Thiên Huế – 57
Bà Triệu-Huế. Theo TNKH số 135/1834/XB – QLXB Cục xuất bản cấp ngày 17
tháng 12 năm 2004. Giấy trích ngang XB số: 174-XB, của NXB Đà Nẵng cấp
ngày 23/3/2005. In xong nộp lưu chiểu tháng 5 năm 2005.
MỤC LỤC
3
LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................................................................4
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” CỦA C.MÁC VÀ F.ENGHEN............................................5
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” CỦA CÁC MÁC VÀ PHRI-ĐRÍCH
ĂNG-GHEN............................................................................................................................................................20
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “LUDWIG FEUER BACH - SỰ CÁO CHUNG CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC”
CỦA F.ENGHEN....................................................................................................................................................34
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “CHỐNG ĐUY RINH (ĐIIH RING)” CỦA F.ENGHEN (Ông Đuy Rinh làm đảo lộn
khoa học).................................................................................................................................................................50
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA KINH NGHIỆM PHÊ PHÁN” CỦA
V. I. LÊNIN.............................................................................................................................................................68
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN” CỦA F.ENGHEN.............................................85
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “BÚT KÝ TRIẾT HỌC” CỦA V.I.LÊNIN..............................................................101
LỜI NÓI ĐẦU
-***-
Trong khi chờ đợi giáo trình có tầm cỡ quốc gia, chúng tôi biên
soạn cuốn sách “Giới thiệu các tác phẩm kinh điển triết học” nhằm phục
4
vụ cho việc học tập của sinh viên Trung tâm Đào tạo Từ xa Đại học Huế
cùng những bạn đọc quan tâm đến nội dung cuốn sách.
Nội dung cuốn sách được hoàn thành dựa trên nội dung cuốn “Bài
giảng các tác phẩm kinh điển triết học” mà chúng tôi đã biên soạn phục vụ
cho việc học tập và nghiên cứu của sinh viên Triết học Đại học Khoa học
Huế theo sự phân công của Bộ môn Triết học - Khoa Mác-Lênin - Trường
Đại học Khoa học Huế tháng 02 năm 2000 và có sử dụng một số tư liệu
của cuốn “Giới thiệu và hướng dẫn nghiên cứu các tác phẩm và chuyên đề
Triết học Mác - Lênin - Bộ môn Triết đại học kinh tế quốc dân 1991”.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng biên soạn theo quyết định số 3244/ GD
- ĐT ngày 12/ 09/ 1995 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, song
cuốn sách cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận
được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, đọc giả xa gần để cuốn sách ngày
càng hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 10 năm 2002
Th.s Hoàng Ngọc Vĩnh
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” CỦA C.MÁC
VÀ F.ENGHEN
I. Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa của tác phẩm.
5
Vào những năm 1845-1846, Tây Âu đang tiến nhanh đến một cuộc cách
mạng mới. Phong trào công nhân phát triển mạnh và rộng rãi khắp châu Âu
nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Lúc này C.Mác và F.Enghen đã đi sâu vào hoạt động chính trị, hai ông
nhận thấy cần phải xây dựng một lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học để phân
ranh giới rõ ràng giữa hệ tư tưởng của giai cấp vô sản với hệ tư tưởng của giai
cấp tư sản, tiểu tư sản, vạch con đường đi đến chủ nghĩa cộng sản một cách hiện
thực mà giai cấp vô sản đang đi vào một cách tự phát.
Theo F.Enghen, lúc này (mùa xuân 1845) quan niệm duy vật ở C.Mác đã
hình thành đầy đủ. Hai ông nhất trí lấy quan niệm đó để phê phán toàn bộ nền
móng triết học cổ điển Đức sau Heghen.
Phê phán “Hệ tư tưởng Đức” là mục đích của tác phẩm: ”Muốn đánh giá
đúng cái bịp bợm triết học đó, nó thậm chí làm thức tỉnh trong lòng người thị
dân Đức trung thực một tình cảm dân tộc dễ chịu, muốn hiểu rõ tính nhỏ nhen,
tính thiển cận địa phương của toàn bộ phong trào của phái Hêghen trẻ đó, và đặc
biệt muốn hiểu rõ sự trái ngược vừa bi đát vừa buồn cười giữa những chiến công
hiện thực của các vị anh hùng đó, với những ảo tưởng của họ về chính những
chiến công ấy thì cần phải xem xét tất cả sự ầm ĩ đó theo một quan điểm ở bên
ngoài nước Đức”1
.
“Hệ tư tưởng Đức” là tác phẩm viết chung của C.Mác và F.Enghen vào
cuối giai đoạn hình thành chủ nghĩa Mác: Lúc mà hai ông đã khắc phục chủ
nghĩa duy tâm trong lĩnh vực xã hội và xây dựng những nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật, đặt nền móng triết học cho lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tác phẩm này viết từ tháng 08/1845 đến tháng 05/1846. Nó gồm hai tập,
nhưng nội dung quan trọng nhất của tác phẩm là ở chương 1 của tập I.
- Trong tác phẩm, hai ông trình bày quan niệm duy vật lịch sử của mình
và đấu tranh với triết học duy tâm về lịch sử của Ludwig Feuerbach, Bauer,
Xtiêc-nơ và những nhà Xã hội chủ nghĩa “chân chính”.
- Nội dung của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” rất phong phú. Trong đó,
C.Mác và F.Enghen đã trình bày một cách rõ ràng, hoàn chỉnh những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa duy vật về lịch sử. “Hệ tư tưởng Đức” thực sự là tác phẩm
lớn nhất của thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác (1842 - 1848).
- Thời C.Mác, tác phẩm này không được xuất bản vì bị kiểm duyệt
nghiêm ngặt. Nó được xuất bản lần đầu tiên tại Matxcơva năm 1932. Tại Việt
Nam nó đã được tái bản bốn lần:
Lần 1 có tựa đề “Hệ tư tưởng Đức - Phần thứ nhất: Phơ bách.
1
C.Mác - F.Enghen -Hệ tư tưởng Đức - Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội 1987 - Trang 9.
6
Lần thứ hai và ba có tựa đề “Ludwig Feuerbach - Sự đối lập giữa quan
điểm duy vật chủ nghĩa và quan điểm duy tâm chủ nghĩa” (Chương 1 Hệ tư
tưởng Đức).
Lần thứ tư, trước khi bước vào thời kỳ đổi mới, tác phẩm được xuất bản
vào tháng 10 / 1986, do Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội ấn hành - có tựa đề “Hệ
tư tưởng Đức - Chương 1 Ludwig Feuerbach sự đối lập giữa quan điểm duy vật
và quan điểm duy tâm”, đúng như trong C.Mác và F.Enghen tuyển tập - Nhà
xuất bản Sự Thật - Hà Nội 1980 - Tập 1 - Trang 259 đến 369.
- Tất cả các lần xuất bản thành tác phẩm riêng bằng tiếng Việt và cả trong
C.Mác và F.Enghen tuyển tập - Tập 1 nói trên, đều chỉ là Chương 1 trong tập I
của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” của C.Mác và F.Enghen.
II. Bố cục của tác phẩm (Tái bản 10 / 1986).
- I Phơ bách Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và duy tâm. Trang 7 -9
(261 - 263).
- Phơ bách A. Hệ tư tưởng nói chung, hệ tư tưởng Đức nói riêng. Trang
10 -13 (264 - 267).
- [1]. Hệ tư tưởng Đức nói chung, triết học Đức nói riêng. Trang 13
- 26 (267 - 279).
- [2]. Trang 26 - 64 (279 - 314).
- [3]. Trang 64 - 70 (314 - 321).
- [4]. Trang 71 - 114 (321 - 362).
- Quan hệ của nhà nước và pháp quyền với sở hữu. Trang 114 - 120
(363 - 369).
III. NHỮNG NỘI DUNG QUAN TRỌNG CỦA TÁC PHẨM.
Tác phẩm có hai nội dung chính: Phê phán triết học Đức sau Hêghen và
Hệ thống quan niệm duy vật về lịch sử tương đối hoàn chỉnh của C.Mác và
F.Enghen.
1. Phê phán triết học Đức sau Heghen.
- Trong tác phẩm hai ông đã chỉ rõ: Phái Heghen trẻ om sòm tự xưng là
cách mạng, nhưng trên thực tế họ không vượt qua chủ nghĩa duy tâm của
Heghen. Họ “tin rằng, tôn giáo, khái niệm, cái phổ biến thống trị trong thế giới
hiện tại”. Họ phê phán ý thức hiện nay - cái mà họ cho là sai lầm - đòi thay thế
nó bằng ý thức phê phán - những quan niệm của chính họ, nhưng trên thực tế họ
là những kẻ bảo thủ, chỉ cách mạng bằng lời lẽ mà thôi: “Mặc dù họ đã dùng
những lời lẽ khoa trương dường như làm đảo lộn thế giới, các nhà tư tưởng của
phái Hêghen trẻ vẫn là những kẻ đại bảo thủ. Những người trẻ nhất trong bọn họ
đã tìm được những từ ngữ chính xác để chỉ hoạt động của họ, khi họ tuyên bố
7
rằng họ chỉ đấu tranh chống lại “những câu nói”... Không một người nào trong
những nhà triết học đó có ý nghĩ tự hỏi xem mối liên hệ giữa triết học Đức với
hiện thực Đức là như thế nào, mối liên hệ giữa sự phê phán của họ với hoàn
cảnh vật chất của chính bản thân họ là như thế nào”2
.
Trong lĩnh vực lịch sử, hai ông chỉ rõ phái Heghen trẻ cũng như chủ nghĩa
duy tâm không biết đến cơ sở hiện thực của lịch sử. Theo hai ông, họ chỉ coi
mỗi thời đại lịch sử là thể hiện của một tư tưởng, một quan niệm nào đó. Chính
thế, khi phân tích một thời đại lịch sử nào đó ở họ suy cho cùng chỉ là sự “tán
đồng ảo tưởng của thời đại đó”.
Hai ông hoàn thành việc phê phán phái Heghen trẻ bằng cách phân tích và
chỉ ra nguồn gốc xã hội của họ. Theo hai ông, họ thuộc giai cấp thị dân Đức,
một giai cấp trung gian của một nước Đức chưa từng thực hiện một cuộc cách
mạng tư sản triệt để. “Triết học Đức là hậu quả của những quan hệ tiểu tư sản”.
Tính nghèo nàn, bất lực của tư tưởng Đức phản ánh chính tính nghèo nàn, thảm
hại của hiện thực Đức. Một nước Đức phong kiến bảo thủ tồn tại bên cạnh một
nước Pháp tư sản triệt để của một xã hội phương Tây sục sôi cách mạng tư sản.
- Như nhan đề của chương 1 đã chỉ rõ, hai ông dành phần quan trọng để
phê phán Ludwig Feuerbach, vạch rõ tính duy tâm về xã hội của triết học ấy.
Hai ông viết “Feuerbach không bao giờ hiểu được rằng thế giới cảm giác được
là tổng số những hoạt động sống và cảm giác được của những cá nhân hợp thành
thế giới ấy, vì vậy ông không nhìn thấy chẳng hạn một đám người đói, còi cọc,
kiệt quệ vì lao động và ho lao, chứ không phải những người khoẻ mạnh thì ông
buộc phải lẩn trốn vào trong “quan niệm cao hơn” và trong “sự bù trừ” lý tưởng
“trong loài” nghĩa là ông lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm, đúng ở chỗ mà người
duy vật cộng sản chủ nghĩa nhìn thấy cả sự tất yếu lẫn điều kiện của một sự cải
tạo cả nền công nghiệp lẫn cơ cấu xã hội. Khi Ludwig Feuerbach là nhà duy vật
thì ông không bao giờ vận dụng đến lịch sử, còn khi ông tính đến lịch sử thì ông
không phải là nhà duy vật. Ở Feuerbach, lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn
tách rời nhau, điều này đã được nói rõ ở bên trên”3
.
+ Hai ông chỉ rõ, Ludwig Feuerbach duy tâm ở chỗ ông ta thừa nhận con
người là đối tượng cảm tính, một thực thể có cảm giác và tình cảm (ở điểm này
ông hơn các nhà triết học duy vật máy móc), nhưng ông ta không thấy giữa
người với người một mối quan hệ nào khác ngoài tình bạn, tình yêu. Thậm chí
ông ta coi tình bạn, tình yêu là động lực quan trọng nhất của lịch sử. Cái nơi cần
giữ lập trường duy vật nhất thì ông ta lại duy tâm sa lầy trong cái trừu tượng về
con người và không bao giờ đi tới được con người hiện thực, con người xã hội:
“Đành rằng so với những nhà duy vật thuần tuý thì Feuerbach có ưu điểm lớn là
ông thấy rằng con người cũng là một “đối tượng của cảm giác”; nhưng hãy gạt
bỏ việc ông coi con người chỉ là “đối tượng của cảm giác” chứ không phải là
2
Sách đã dẫn - Trang 13.
3
Sđd - Trang 33.
8
“hoạt động cảm giác được”, vì cả ở đây nữa, ông vẫn còn bám vào lý luận và
không xem xét con người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong
những điều kiện sinh hoạt nhất định của họ, những điều kiện làm cho họ trở
thành những con người đúng như họ đang tồn tại, thì Feuerbach cũng không bao
giờ đi tới được những con người đang tồn tại và hành động thực sự, mà ông vẫn
cứ dừng lại một sự trừu tượng: “Con người” và có thể nhận ra con người ”hiện
thực, cá thể, bằng xương bằng thịt” chỉ trong tình cảm thôi, nghĩa là ông không
biết đến những “quan hệ con người”, “giữa người với người” nào khác, ngoài
tình yêu và tình bạn, hơn nữa là tình yêu và tình bạn được lý tưởng hoá. Ông
không phê phán những điều kiện hiện tại”4
.
+ Hai ông cũng chỉ rõ, thái độ tĩnh quan của Ludwig Feuerbach đã dẫn
ông ta đến tự nhiên chủ nghĩa về lịch sử xã hội, coi con người là sản phẩm của
tự nhiên, phục tùng những quy luật của tự nhiên, những quy luật sinh học. Ông
ta chỉ thấy cái tự nhiên mà không thấy cái xã hội ở con người. Ông ta đã tách rời
tự nhiên với xã hội, không thấy mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên với xã
hội.
Thật ra, con người không chỉ là đối tượng cảm tính mà còn hoạt động cảm
tính. Dĩ nhiên là từ tự nhiên tách ra con người, nhưng con người lại cải tạo tự
nhiên. “Bao giờ con người cũng đứng trước một giới tự nhiên lịch sử và một lịch
sử tự nhiên”. Tự nhiên có vị trí ưu tiên của nó, song không thể xem nó là cái chủ
yếu, bất biến, không thay đổi. Chính cái xã hội mới là cái cơ sở, cái tự nhiên
phát triển, thành cái xã hội, trở thành cái xã hội, không biến mất mà chỉ thay đổi
hình thức của mình.
- Quan điểm tự nhiên chủ nghĩa về lịch sử chỉ thừa nhận quy luật tự nhiên,
quy luật sinh học tác động trong xã hội. Quan niệm ấy luôn luôn gặp các mâu
thuẫn không thể giải quyết được giữa tính quy luật khách quan và hoạt động có
ý thức của con người; hoặc quy luật tự nhiên quyết định lịch sử hay ý thức con
người quyết định lịch sử; hoặc hoàn cảnh quyết định con người hay con người
quyết định hoàn cảnh của họ. Về điểm này, hai ông chỉ ra Ludwig Feuerbach
duy tâm khi ông ta cho rằng, bản thân con người sáng tạo ra lịch sử của mình mà
chỉ đóng khung con người trong phạm vi thể chất, tình cảm - tức ông ta chỉ thấy
cái chủ quan mà không thấy cái khách quan, không thấy cái đặc thù của cái
khách quan trong lĩnh vực xã hội, không thấy cái đặc thù của quy luật xã hội
(Triết học duy vật biện chứng coi con người sáng tạo ra hoàn cảnh lịch sử trong
chừng mực nào, thì hoàn cảnh lịch sử cũng tạo ra con người trong chừng mực
ấy). Ở đây, Ludwig Feuerbach đã thụt lùi hơn so với Heghen. Heghen cho rằng,
kết quả hoạt động có mục đích của con người không phụ thuộc vào bản thân
hoạt động ấy, tức kết quả ấy là cái khách quan. Tuy nhiên, Heghen đã giải thích
tính khách quan ấy một cách tư biện (Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về
con người và bản chất con người là: Con người là một chỉnh thể thống nhất của
4
Sđd - Trang 32-33.
9
ba hệ thống các quy luật: Hệ thống các quy luật sinh học tạo nên phương diện
sinh học ở con người; Ý thức con người hình thành và hoạt động trên cơ sở nền
tảng sinh học của con người; Hệ thống các quy luật xã hội tạo nên cái xã hội của
con người, nó quy định mối quan hệ giữa người với người. Trong đời sống hiện
thực ba quy luật đó không tách rời nhau mà đan quyện hoà vào nhau, tạo nên
bản chất con người với tư cách là cái đồng nhất của cái tự nhiên sinh học và cái
xã hội. Con người trước hết là một động vật bậc cao. Nhưng con vật chỉ tái sản
xuất ra chính mình, còn con người thì còn tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên.
Nhu cầu tự nhiên của con người được biểu hiện ở các mặt: nhu cầu ăn, ở, mặc...;
nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần, nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình
cảm và nhu cầu hiểu biết. Để đáp ứng những nhu cầu đó con người cần phải lao
động. Trong lao động con người quan hệ với nhau, hình thành nên những quan
hệ khác trong lĩnh vực đời sống tinh thần. Chính thế C.Mác khẳng định “trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”. Bản
chất con người không là cái bẩm sinh cũng không là cái chỉ sinh ra một lần là
xong, mà nó là một quá trình được trải qua hoạt động thực tiễn. Trong quá trình
đó con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh vừa cải biến hoàn cảnh. Con người
vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của mình.).
+ Hai ông chỉ rõ “toàn bộ suy diễn của Ludwig Feuerbach về quan hệ
giữa người với người chỉ nhằm chứng minh người ta cần có nhau và bao giờ
cũng cần có nhau. Cũng như những nhà duy lý khác, Ludwig Feuerbach không
phải là một nhà cách mạng, mà là một nhà bảo thủ. Lý luận của Ludwig
Feuerbach chỉ là sự ca tụng tuyệt diệu cái đang tồn tại. Ông ta viết “Bản chất của
tôi như thế nào thì tồn tại của tôi như thế ấy”. Cái đang tồn tại mà Ludwig
Feuerbach ca ngợi chính là trật tự tư sản. Là người có tấm lòng nhân đạo,
Ludwig Feuerbach không thể thờ ơ với cảnh khổ của người lao động. Nhưng là
nhà dân chủ tư sản ông ta không thể nhìn thấy được nguyên nhân của tình cảnh
ấy và lối thoát hợp quy luật khỏi tình cảnh đó. Ông ta không có ý thức bênh vực
trật tự dân chủ tư sản, mà chính do hạn chế bản chất giai cấp của tư tưởng của
ông ta tạo ra. Ludwig Feuerbach không phủ định mà thừa nhận sự tồn tại của cáí
đang tồn tại. Mà cái đang tồn tại không là cái gì khác ngoài hơn là trật tự dân
chủ tư sản.
- Như vậy, hai ông đã tiến hành hai bước làm cơ sở để xây dựng quan
niệm duy vật về lịch sử của mình là: Thứ nhất là phê phán chủ nghĩa duy tâm về
lịch sử của các nhà triết học duy tâm như Heghen và phái Heghen trẻ. Thứ hai là
phê phán chủ nghĩa duy tâm về lịch sử của các nhà triết học duy vật cũ mà đỉnh
cao là Ludwig Feuerbach. Đây là điểm mới trong xây dựng chủ nghĩa duy vật về
lịch sử của Mác và Ăngghen.
2. Hệ thống quan niệm duy vật về lịch sử tương đối hoàn chỉnh của C.Mác
và F.Enghen trong tác phẩm.
10
Quan niệm duy vật lịch sử của C.Mac và F.Enghen có hai nội dung chính
là Tiền đề và bản chất của quan niệm duy vật lịch sử; Quan niệm duy vật về lịch
sử.
a) Tiền đề và bản chất của quan niệm duy vật lịch sử của C.Mác và F.
Enghen. (Có năm tiền đề)
Theo C.Mác và F.Enghen, tiền đề đầu tiên của mọi lịch sử là sự tồn tại
của những cá nhân con người “người ta phải có khả năng sống để rồi mới có khả
năng làm ra lịch sử”. Con người muốn tồn tại ít nhất phải ăn, ở và mặc. Muốn
vậy con người phải sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Trong sản xuất vật
chất thì sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt là tiền đề cơ bản của mọi lịch sử, nó
là sự thực lịch sử đầu tiên, là quan hệ lịch sử đầu tiên. Hai ông viết “có thể phân
biệt con người với loài vật bằng ý thức, tôn giáo, nói chung bằng cái gì cũng
được. Còn chính con người thì bắt đầu tự phân biệt với loài vật khi con người
bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình... Khi sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình con người gián tiếp sản xuất ra chính
đời sống vật chất của bản thân mình”. “Người ta phải có khả năng sống đã rồi
mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có
thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy hành vi
lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy,
việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất, và đó là một hành vi lịch sử, một
điều cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như hàng ngàn năm về trước
người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ chỉ nhằm để duy trì đời sống con
người”5
. Như vậy tiền đề đầu tiên của mọi lịch sử suy cho cùng là việc sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt.
Hai ông chỉ ra quan hệ lịch sử thứ hai là sự thoả mãn nhu cầu đầu tiên đưa
tới những nhu cầu mới. Và sự sản sinh ra những nhu cầu mới này là hành vi lịch
sử đầu tiên. Nhưng muốn thỏa mãn nhu cầu thì phải sản xuất, nhưng chính sản
xuất lại tạo ra những nhu cầu mới. Đến lượt nó, những nhu cầu mới lại trở thành
nguyên nhân của sự phát triển sản xuất. “Bản thân nhu cầu đầu tiên được thoả
mãn - khi đã có được hành động được thoả mãn ấy và công cụ đạt được để thoả
mãn nhu cầu ấy - đưa tới những nhu cầu mới”, chính là tiền đề quan hệ lịch sử
thứ hai, trong xây dựng quan niệm duy vật lịch sử của hai ông.
Quan hệ lịch sử thứ ba là trong tái sản xuất ra đời sống vật chất của chính
bản thân mình, thì con người cũng tái sản xuất ra con người thông qua quan hệ
gia đình. Tức là, trong khi tái sản xuất ra đời sống của chính mình, thì con người
cũng sản xuất ra những con người khác, con người luôn sinh sôi nảy nở. Khi
những nhu cầu đã tăng lên sinh ra những nhu cầu mới thì quan hệ gia đình cũng
là một quan hệ phụ thuộc. Gia đình lúc đầu là quan hệ xã hội duy nhất, về sau
trở thành một quan hệ phụ thuộc khi mà những nhu cầu đã tăng lên đẻ ra những
5
S đ d Trang 34.
11