Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giao duc chu nghia yeu nuoc cho hoc vien nha truong quan su hien nay
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Yêu nước vốn là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đã được
hình thành từ hàng nghìn năm lịch sử, là một thành tố rất quan trọng có vai trò
quyết định đến sức mạnh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta nói chung, sức
mạnh chiến đấu của quân đội ta nói riêng. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước,
dân tộc ta đã làm nên những kỳ tích vĩ đại hơn mười thế kỷ Bắc thuộc không bị
đồng hoá, đã đánh thắng những đế chế phong kiến phương Bắc và các thế lực đế
quốc lớn phương Tây, xây dựng một nước Việt Nam ngày một thịnh vượng. Với
ý nghĩa đó giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong Quân đội nói chung và Đại học nói
riêng đã góp phần to lớn nâng cao tinh thần yêu nước cho toàn quân, tạo nên sức
mạnh chính trị, tinh thần to lớn trong lịch sử, đảm bảo cho quân đội ta luôn
trưởng thành và chiến thắng. Đó là bài học hết sức quý báu mà ngày nay cần
được tiếp thu phát huy có hiệu quả hơn trong điều kiện mới.
Hiện nay trong điều kiện mới, trước tác động của nhiều yếu tố khách quan
và nhân tố chủ quan, thì vấn đề giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên Đại
học đang có những thuận lợi cơ bản. Đồng thời còn phải đối mặt với không ít
thách thức khó khăn trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, tình hình
kinh tế chính trị văn hoá xã hội trong nước, sự chống phá quyết liệt của kẻ thù
trong chiến lược “Diễn biến hoà bình”, những tác động tiêu cực của mặt trái cơ
chế thị trường đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức, tình cảm yêu nước, đến
quá trình rèn luyện phẩm chất nhân cách và chất lượng học tập, công tác của
sinh viên trong ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. Một số
sinh viên có hiện tượng bộc lộ khuynh hướng đề cao lợi ích vật chất, xem nhẹ
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhận thức chưa đầy đủ về tri thức lịch
2
sử, thiếu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội vào sự lãnh đạo của Đảng, mơ hồ mất
cảnh giác với kẻ thù, sao nhãng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Những biểu hiện đó
đã phần nào ảnh hưởng tới danh dự, bản chất, truyền thống của quân đội, nhà
trường, đơn vị, hạn chế đến công tác giáo dục CNYN cho sinh viên hiện nay. Vì
vậy, giáo dục CNYN cho sinh viên ở các Trường đại học hiện nay là một đòi hỏi
bức thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao trình độ
nhận thức, cũng cố niềm tin, xây dựng động cơ, thái độ, đúng đắn trong học tập
và rèn luyện để trở thành người sĩ quan có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội, xây dựng các Trường
đại học trong điều kiện hội nhập đang đặt ra yêu cầu đòi hỏi phải tăng cường
giáo dục CNYN cho SV đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Họ là những cán bộ, sĩ
quan tương lai, là lực lượng kế cận đảm đương nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu ở các đơn vị cơ sở. Muốn họ hoàn thành nhiệm vụ phải
giáo dục- đào tạo họ phát triển toàn diện cả về phẩm chất, năng lực, trình độ,
trong đó giáo dục CNYN là cơ sở nền tảng, là điều kiện để phát triển hoàn
thiện nhân cách, là động lực thúc đẩy họ hoàn thành mục tiêu, yêu cầu đào tạo
của nhà trường. Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ, chỉ huy
các cấp, sự cố gắng nỗ lực trong công tác giáo dục- đào tạo của các nhà
trường nên giáo dục CNYN cho SV ở các Trường đại học đạt được thành tựu
đáng kể góp một phần quan trọng làm cho quân đội ta tiếp tục phát huy truyền
thống vẻ vang “Trung với Đảng, hiếu với dân sẵn sàng chiến đấu huy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[25, tr.34] trong sự
3
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả
đạt được, trong công tác giáo dục CNYN cho SV còn bộc lộ nhiều bất cập,
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, thiếu sáng tạo chưa
đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn, quá trình giảng dạy các môn KHXH-NV
cũng như các môn khoa học kỹ thuật quân sự chỉ mới chú trọng đến việc
truyền thụ kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng, chưa thực sự quan tâm nhiều đến việc
bồi dưỡng về lập trường, tư tưởng, tình cảm, trách nhiệm đối với Tổ quốc, đối
với truyền thống dân tộc và CNXH cho SV. Một số cán bộ, SV trong nhận
thức và hành động còn giản đơn coi CNYN là vấn đề “vốn có ở người Việt
Nam” từ đó cho giáo dục CNYN là mất thời gian, vô bổ, cần tập trung làm
việc khác. Mặt khác về phương diện lý luận tuy đã có nhiều công trình nghiên
cứu về giáo dục CNYN cho quân nhân hiện nay, nhưng với đối tượng cụ thể
là SV ở các Trường đại học thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
cơ bản hệ thống. Từ những lý do trên việc nghiên cứu vấn đề giáo dục CNYN
cho Sinh viên Khoa Giáo dục Quốc phòng hiện nay là một yêu cầu khách
quan, cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đó là lý do
chúng tôi chọn đề tài “ Giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên NTQS
hiện nay” với hy vọng góp phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục
CNYN cho Sinh viên Khoa Giáo dục Quốc phòng hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những căn cứ về lý luận và thực tiễn của việc giáo dục
SV ở các Trường đại học, tác giả đề xuất hệ thống biện pháp giáo dục CNYN cho
họ nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
các Trường đại học, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của quân đội trong tình hình
mới .
4
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu là quá trình giáo dục-đào tạo ở các Trường đại học
hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là biện pháp giáo dục chủ nghĩa yêu
nước cho Sinh viên Khoa Giáo dục Quốc phòng hiện nay.
4 . Giả thuyết khoa học
Phẩm chất yêu nước của Sinh viên Khoa Giáo dục Quốc phòng được
hình thành, phát triển bởi sự tác động từ nhiều nhân tố, trực tiếp và chủ yếu là
do quá trình giáo dục và tự giáo dục của SV. Trong quá trình giáo dục đào tạo
ở các Trường đại học, nếu thông qua dạy học các môn học trong quá trình đào
tạo; hoàn thiện nội dung; đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp giáo dục,
sử dụng có hiệu quả các phương tiện giáo dục; phối hợp chặt chẽ các lực
lượng trong và ngoài nhà trường quân đội; xây dựng môi trường văn hoá
giáo dục tạo điều kiện thuận lợi. Thì có thể giáo dục CNYN cho SV trong
các Trường đại học sẽ đạt tới chất lượng, kết quả cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước
cho Sinh viên Khoa Giáo dục Quốc phòng hiện nay.
- Đề xuất các biện pháp giáo dục CNYN cho Sinh viên Khoa Giáo dục
Quốc phòng hiện nay.
6. Phạm vi nghiên cứu
Chủ nghĩa yêu nước được hình thành bằng nhiều con đường khác
nhau, nhưng trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ bàn đến con đường giáo
dục CNYN thông qua các biện pháp giáo dục nhằm tác động vào nhận
5
thức, tình cảm, hành vi hành động yêu nước của SV đào tạo sĩ quan cấp
phân đội ở các Trường đại học hiện nay.
7. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Về phương pháp luận, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, những quan điểm, tư tưởng về giáo dục của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí
Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. Đồng thời quán triệt, vận dụng quan điểm hệ thống
cấu trúc, quan điểm thực tiễn, lô-gíc và lịch sử trong quá trình nghiên cứu đề tài.
* Về phương pháp nghiên cứu, tác giả đã kết hợp, sử dụng các phương
pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn sau đây:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết gồm: phương pháp phân tích,
tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá các nguồn tài liệu lý luận chuyên ngành,
liên quan…để xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm:
+ Quan sát thái độ, hành vi, hoạt động hàng ngày của lực lượng giáo dục
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nội dung giáo dục CNYN.
+Tiến hành điều tra bằng phiếu (An két) 500 SV đang được đào tạo
thành sĩ quan cấp phân đội, 250 cán bộ, giáo viên trực tiếp giảng dạy, quản
lý SV ở một số NTQS.
+ Toạ đàm trao đổi với SV và cán bộ quản lý, giáo viên khoa Khoa học
xã hội nhân văn, các cơ quan của một số NTQS.
+ Nghiên cứu sản phẩm giáo dục, tự giáo dục như: chương trình, kế hoạch,
báo cáo, tổng kết hàng năm từ 2002- 2007 của cơ quan chức năng và các báo cáo
tổng kết của các tiểu đoàn quản lý SV của một số nhà trường sĩ quan.
+ Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn giáo dục CNYN cho SV ở các Trường
đại học.
6
+ Tham khảo ý kiến của một số nhà khoa học, nhà sư phạm.
+ Khảo nghiệm đối với cán bộ quản lý và giáo viên về một số nội dung
nhằm kiểm chứng biện pháp đã đề xuất.
8. Đóng góp mới của đề tài
- Đề tài góp phần khái quát và làm rõ một số vấn đề lý luận về giáo dục
CNYN cho Sinh viên Khoa Giáo dục Quốc phòng. Chủ yếu trong đó là hệ
thống khái niệm gồm: CNYN; giáo dục CNYN; biện pháp giáo dục CNYN
cho SV đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Đại học hiện nay.
- Góp phần làm rõ những vấn đề thực tiễn đặt ra đối với việc giáo dục
CNYN cho SV đào tạo sĩ quan cấp phân đội các Trường đại học hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục CNYN cho SV trong quá trình đào
tạo tại các Trường đại học mang tính đồng bộ, khả thi, tạo sơ sở cho việc nâng
cao chất lượng đào tạo các Trường đại học hiện nay.
9. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm mục lục; mở đầu; chương 1; chương 2; kết luận và kiến
nghị; danh mục tài liệu tham khảo; phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CHỦ
NGHĨA YÊU NƯỚC CHO SINH VIÊN
1.1. Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa yêu nước và giáo dục chủ
nghĩa yêu nước
7
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
* Chủ nghĩa yêu nước trong lịch sử dân tộc Việt Nam
Ngay từ buổi đầu dựng nước trong nhận thức, tư tưởng và tâm hồn người
Việt Nam đã hình thành lòng yêu nước, thương nòi rất nồng nàn và mãnh liệt. Đó
là dòng tư tưởng, tình cảm chủ yếu, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt
Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và lũ cướp nước” [26, tr.171]. Chính vì vậy, chủ nghĩa yêu nước đã được các
lãnh tụ, các nhà khoa quan tâm nghiên cứu, tiêu biểu là những bài nói, bài viết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về yêu nước (trong Hồ Chí Minh toàn tập); Lê
Duẩn với tác phẩm “Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam”; Phạm Văn
Đồng với “Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội” Nxb ST, H, năm 1959;
giáo sư Trần Xuân Trường với “Chủ nghĩa yêu nước thời đại Hồ Chí Minh”
Nxb QĐND 1999” Lương Gia Ban với “Chủ nghĩa yêu nước trong sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá” Nxb CTQG 1999. Các tác giả đã khái quát chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam bắt nguồn và phát triển từ thời vua Hùng dựng
nước xuyên suốt cho đến ngày nay, từ tinh thần yêu nước của Hai Bà Trưng,
Bà Triệu đứng lên chống lại quân thù, đến Lý Bí khi dành được độc lập xưng
là Lý Nam Đế để quyết không chấp nhận quan hệ “phiên thuộc” với “thiên
triều”. CNYN Việt Nam từ thời Lý Thường Kiệt đã được khẳng định thành
văn ý chí bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Từ thời Lê Lợi và Nguyễn Trãi, CNYN Việt Nam đã nêu ra lý tưởng dập tắt
muôn đời ngọn lửa chiến tranh xâm lược, xây dựng nền thái bình muôn thuở.
8
Và CNYN Việt Nam được giương cao trong phong trào nông dân Tây Sơn
với lãnh tụ thiên tài Quang Trung đã thể hiện một ý chí mãnh liệt của nhân
dân ta đòi chống áp bức, chống xâm lược để bảo vệ một Tổ quốc độc lập,
thống nhất: Đánh cho chúng trích luân bất phản, đánh cho chúng phiến giáp
bất hoàn, đánh cho sử thi Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ. Đến thời đại Hồ
Chí Minh CNYN truyền thống Việt Nam được Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí
Minh khơi dậy và phát huy mạnh mẽ, cao độ hơn bao giờ hết, được thể hiện ở
ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” “Thà huy sinh tất cả chứ không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” đã thôi thúc toàn dân tộc đứng lên dũng
cảm, kiên cường, đập tan mọi lực lượng và phương tiện chiến tranh hiện đại
nhất của chủ nghĩa đế quốc, giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả
nước tiến lên xây dựng CNXH. Ngày nay quan niệm về yêu nước không chỉ
dừng lại ở việc sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc mà còn phải được thể hiện
ở việc xây dựng Tổ quốc, làm cho dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh, phải chiến thắng sự nghèo hèn, lạc hậu, sự kém cỏi của
dân tộc, từng bước vươn lên theo kịp các nước trong khu vực và thế giới.
Như vậy, các công trình khoa học trên đã đề cập, luận giải CNYN ở
những cấp độ khác nhau, song đều chứng minh cho sự hiện diện, hình thành,
tồn tại, phát triển CNYN Việt Nam là một quá trình xuyên suốt chiều dài lịch
sử từ khi dựng nước và giữ nước đến nay, đó là những ý tưởng, tiền đề rất quan
trọng để kế thừa giáo dục CNYN cho Sinh viên Khoa Giáo dục Quốc phòng.
* Giáo dục chủ nghĩa yêu nước trong lịch sử dân tộc
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước cha ông ta đã
xây dựng nên hệ thống những tư tưởng giáo dục CNYN hết sức quý báu, có ý
nghĩa to lớn trong việc khơi dậy lòng yêu nước truyền thống cho các tầng lớp
9
nhân dân và quân sĩ có đủ bản lĩnh chính trị tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết
thắng chống giặc ngoại xâm giải phóng dân tộc. Do vậy, nghiên cứu vấn đề này
có nhiều công trình khoa học trong và ngoài quân đội đề cập đến tiêu biểu như:
- Lịch sử Việt Nam, Tập1, Nxb KHXH 1971; Lịch sử giáo dục quân sự
Việt Nam, Nxb QĐND 2001; Đề tài KX- 07-19 “Tìm hiểu hoạt động giáo
dục truyền thống yêu nước bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử dân tộc” do Thiếu
tướng Nguyễn Chu Phát chủ nhiệm đề tài, Nxb QĐND 1994. Các công trình
khoa học trên đã khái quát một số vấn đề về nội dung, phương pháp, hình thức
giáo dục CNYN trong thời kỳ phong kiến như.
+ Về nội dung giáo dục
Giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc cho binh sĩ, nhằm khích
lệ tinh thần, phát huy nhân tố vật chất tạo thành sức mạnh tổng hợp chiến
thắng quân thù. Ở thế kỷ XIII trước nạn xâm lược tàn bạo của quân Nguyên,
vua Trần thông qua triệu tập hội nghị “Diên Hồng” để bàn cách đánh giặc cứu
nước, Trần Quốc Tuấn viết Hịch tướng sĩ để kích lệ, động viên, giáo dục lòng
yêu nước của tướng sĩ: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ruột đau
như cắt nước mắt đầm đìa, chỉ giận không được ăn thịt lột da nuốt gan uống
máu quân thù..”[20,tr. 200]. Việc làm trên đã phát huy được tinh thần yêu
nước trong mọi tầng lớp nhân dân từ người đan sọt đến người đánh cá, từ trẻ
em đến bậc cao niên, từ vua tôi đến tướng sĩ đều cháy bỏng lòng căm thù
giặc, thể hiện tinh thần yêu nước cao độ, tạo nên dấu ấn một thời đại gọi là
“hào khí Đông A” ba lần chiến thắng quân Nguyên hung bạo. Trong cuộc
kháng chiến chống quân Minh xâm lược (1418- 1427) giáo dục lòng yêu nước
và quyết tâm chiến đấu được thể hiện sinh động trong lời thề ở lũng nhai Lê
Lợi cùng 18 người thân tín: thề chết sống đều phải cùng nhau đánh tan quân
10
giặc Ngô không dám quên lời thề ước. Trong cuộc tiến công chiến lược đại
phá quân Thanh xâm lược (1789), tại buổi lễ duyệt binh lớn ở trấn Nghệ An,
Quang Trung đã kêu gọi, giáo dục lòng yêu nước cho quân sĩ: Quân Thanh
sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa?..từ đời Hán
đến nay, chúng đã mấy phen cướp nước ta, vơ vét của cải, người mình không
thể chịu nổi ai cũng muốn đánh đuổi chúng đi. Cùng với giáo dục lòng yêu
nước thì ông cha ta bao giờ cũng gắn với giáo dục lòng căm thù giặc để tạo
nên động lực mạnh mẽ ở quân sĩ khiến họ chiến đấu dũng cảm tiêu diệt kẻ
thù. Trong hịch tướng sĩ Trần Quốc Tuấn vạch rõ tội ác của giặc Nguyên
“Uốn lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, đem thân dê chó bắt nạt tể phụ…
giả hiệu Vân Nam Vương để vét vàng bạc”[21, tr.258]. Trong bình ngô đại
cáo Nguyễn Trãi nói lên tội ác của giặc Minh đến mức tát cạn nước Đông Hải
không đủ rửa vết nhơ, chặt hết trúc Nam Sơn chẳng đủ ghi hết tội ác: Thui dân
đen trên lò bạo ngược, hãm con đỏ dưới hố tai ương. Đó chính là mạch nguồn
làm nên chiến thắng.
Giáo dục tinh thần độc lập dân tộc, lòng tự hào tự tôn dân tộc và ý chí
kiên cường bất khuất, quyết chiến quyết thắng. Trải qua các thế hệ nối tiếp
nhau ông cha ta luôn thể hiện tinh thần kiên quyết chống giặc ngoại xâm, thực
hiện mục tiêu cao cả bảo vệ quyền độc lập tự chủ của Tổ quốc, bất kể quân
xâm lược lớn mạnh thế nào ông cha ta vẫn không hề khuất phục. Cuộc kháng
chiến chống quân Tống xâm lược thế kỷ XI, nhân danh dân tộc Lý thường
kiệt đã cảnh cáo đanh thép đối với kẻ cướp nước đồng thời cũng tuyên bố
quyền bất khả xâm phạm và ý chí kiên quyết bảo vệ nền độc lập dân tộc
“Sông núi nước Nam vua Nam ở, rành rành định phận ở sách trời, cớ sao lũ
giặc sang xâm phạm, chúng bay sẽ bị đánh tơi bời” [20, tr.181]. Bài thơ thần
11