Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
135
Kích thước
18.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1980

Giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là bất động sản không phải đăng ký theo pháp luật dân sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HOÀI BẢO

GIAO DỊCH LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CHUNG

CỦA VỢ CHỒNG LÀ ĐỘNG SẢN KHÔNG PHẢI

ĐĂNG KÝ THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

GIAO DỊCH LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CHUNG

CỦA VỢ CHỒNG LÀ ĐỘNG SẢN KHÔNG PHẢI

ĐĂNG KÝ THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĨNH CHÂU

Học viên: NGUYỄN HOÀI BẢO

Lớp: Cao học Luật dân sự và Tố tụng dân sự khóa 32

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi

dưới sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của TS. Lê Vĩnh Châu.

Các thông tin nêu trong Luận văn là trung thực.

Các ý kiến, quan điểm không thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của

chính bản thân đều được trích dẫn đầy đủ.

Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của các kết quả

nghiên cứu trong Luận văn.

Tác giả luận văn

Nguyễn Hoài Bảo

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT TỪ VIẾT ĐẦY ĐỦ TỪ VIẾT TẮT

1. Bộ luật dân sự BLDS

2. Bộ luật tố tụng dân sự BLTTDS

3. Luật Hôn nhân và gia đình Luật HNGĐ

4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHNNVN

5. Nhà xuất bản Nxb

6. Tòa án nhân dân TAND

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIAO DỊCH LIÊN QUAN ĐẾN

TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG LÀ ĐỘNG SẢN KHÔNG PHẢI ĐĂNG

KÝ....................................................................................................................................9

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của giao dịch liên quan đến tài sản chung của

vợ chồng là động sản không phải đăng ký................................................................9

1.1.1. Khái niệm giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản

không phải đăng ký....................................................................................................9

1.1.2. Đặc điểm của giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là động

sản không phải đăng ký ...........................................................................................19

1.1.3. Ý nghĩa của quy định pháp luật về giao dịch liên quan đến tài sản chung của

vợ chồng là động sản không phải đăng ký ..............................................................22

1.2. Nội dung của quy định về giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ

chồng là động sản không phải đăng ký...................................................................24

1.2.1 Quyền của vợ, chồng trong việc xác lập giao dịch ........................................24

1.2.2 Nghĩa vụ của vợ, chồng phát sinh từ giao dịch..............................................31

1.2.3 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch ...............................................................33

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................................37

CHƯƠNG 2 : BẤT CẬP, VƯỚNG MẮC VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VỀ GIAO DỊCH LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG

LÀ ĐỘNG SẢN KHÔNG PHẢI ĐĂNG KÝ.............................................................38

2.1. Về quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ

chồng là động sản không phải đăng ký...................................................................39

2.2 Điều kiện người thứ ba ngay tình trong giao dịch liên quan đến tài sản

chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký ...........................................45

2.3. Điều kiện về hình thức trong giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ

chồng là động sản không phải đăng ký...................................................................48

2.4. Về việc bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia xác lập, thực hiện giao dịch

liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký.......52

2.5. Xác định mục đích nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong giao dịch liên

quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký..............57

2.6. Trách nhiệm liên đới phát sinh từ giao dịch liên quan đến tài sản chung của

vợ chồng là động sản không phải đăng ký..............................................................63

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................................66

KẾT LUẬN CHUNG...................................................................................................67

1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Hôn nhân là một mối quan hệ được tạo lập bởi hai người có mong muốn cùng

chung sống với nhau để xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và được pháp

luật công nhận khi đáp ứng các điều kiện, trình tự, thủ tục do cơ quan có thẩm

quyền ban hành. Trong mối quan hệ này, để phục vụ các nhu cầu trong cuộc sống

hằng ngày của gia đình, chế độ tài sản chung của vợ chồng đã được pháp luật quy

định khá cụ thể và chi tiết trên cơ sở bình đẳng giữa các bên đối với quyền, nghĩa vụ

trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung này bằng thỏa thuận.

Sự thỏa thuận thể hiện ý chí này còn được yêu cầu nghiêm ngặt hơn về mặt

hình thức, cụ thể là phải bằng văn bản đối với các loại tài sản chung có giá trị lớn

hoặc có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của gia đình như bất động

sản, động sản mà theo quy định pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu (xe, tàu bay,

tàu biển) hay tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình. Theo đó,

đã thấy rõ được sự bình đẳng giữa vợ chồng và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp

của các bên trong mối quan hệ hôn nhân trong cách tiếp cận của các nhà làm luật.

Dù vậy, pháp luật vẫn dành riêng cho vợ chồng quyền định đoạt đối với các tài

sản chung nhất định, trong đó điển hình là các loại động sản không phải đăng ký

(chứng khoán trong tài khoản chứng khoán, tiền trong tài khoản ngân hàng, các

động sản không phải đăng ký khác). Trên thực tế, các loại tài sản này do pháp luật

không bắt buộc phải đăng ký, không bắt buộc ghi nhận tên của cả hai vợ chồng nên

việc người đang chiếm hữu rất dễ dàng xác lập, thực hiện các giao dịch với bên thứ

ba. Từ đó, dẫn đến việc thường xuyên xảy ra tranh chấp khi bên vợ, chồng còn lại

không trực tiếp tham gia giao dịch khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu và

đòi lại tài sản, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến tính ổn định của giao dịch, quyền lợi

chính đáng, hợp pháp của các bên, đặc biệt là bên thứ ba.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 với quy định tại Điều 32 nhằm công

nhận hiệu lực của các giao địch này, bảo vệ cho bên thứ ba ngay tình là một bước

tiến mới so với pháp luật về hôn nhân gia đình trước đó. Tuy nhiên, sau hơn 05 năm

áp dụng vào thực tế, cơ chế tự định đoạt này vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần

nghiên cứu và làm rõ, cụ thể như:

Thứ nhất, cơ sở quy định về hình thức thỏa thuận bằng văn bản trong việc định

đoạt tài sản chung của vợ chồng. Trên thực tế, có nhiều tài sản chung của vợ chồng

là động sản không phải đăng ký, nhưng lại có giá trị rất cao như tiền, vàng, đá quý,

2

đồ gỗ, cổ vật… và việc định đoạt các tài sản này đôi khi lại ảnh hưởng rất lớn đến

quyền, lợi ích hợp pháp của bên vợ, chồng nhưng lại không bị ràng buộc về hình

thức thỏa thuận bằng văn bản.

Thứ hai, các khái niệm như tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của

gia đình hay nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình, dù có hay không được

quy định tại luật thực định, vẫn gây ra khó khăn trong việc đánh giá trên thực tế vì

còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện, hoàn cảnh sống của từng gia đình. Do vậy, cơ sở

thực hiện quyền tự xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ

chồng còn phụ thuộc phần lớn vào nhận thức chủ quan của chủ thể vận dụng pháp

1uật và cơ quan giải quyết tranh chấp.

Thứ ba, quy định về trách nhiệm liên đới phát sinh từ giao dịch liên quan đến

tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký và cơ chế bồi thường

khi có sự xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng với nhau trong luật

thực định vẫn còn chưa đảm bảo được quyền lợi của các bên.

Thứ tư, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các mức độ khác nhau về tài sản

chung, tài sản riêng của vợ, chồng, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu

chuyên sâu về lý luận và thực tiễn giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ

chồng là động sản không phải đăng ký.

Nhận thức được vấn đề nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Giao dịch liên quan

đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký theo pháp luật

dân sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật học, với kỳ vọng sẽ làm rõ được các

bất cập còn đang tồn tại trong quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, từ đó

đề xuất một số giải pháp để góp phần hoàn thiện cơ chế cho các giao dịch liên quan

đến tài sản chung đặc thù của vợ chồng là các động sản không phải đăng ký.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tài sản chung của vợ chồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc sống

hôn nhân nhằm bảo đảm nhu cầu gia đình và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ

chồng. Do vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về chế độ tài sản chung này,

trong đó bao gồm cả quyền định đoạt của một bên vợ hoặc chồng trong các giao

dịch có liên quan đến các tài sản này. Tuy nhiên, nhìn nhận một tổng quát, loại tài

sản chung được tập trung nghiên cứu chủ yếu là các bất động sản hoặc động sản

phải đăng ký theo quy định của pháp luật do tính phổ biến thể hiện trong các giao

dịch trong cuộc sống hàng ngày. Riêng đối với tài sản chung của vợ chồng là các

động sản không phải đăng ký thì hiện nay tuy vẫn có các công trình nghiên cứu đề

3

cập, dẫn chứng đến nhưng lại chưa thực sự có những nghiên cứu riêng biệt và

chuyên sâu. Cụ thể:

- Về giáo trình, sách chuyên khảo:

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), “Giáo trình pháp luật

về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (Tái bản lần thứ 1, có sửa

đổi, bổ sung), Đỗ Văn Đại (Chủ biên), Nhà xuất bản Hồng Đức và Trường Đại học

Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), “Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở

hữu và thừa kế (Tái bản có sửa đổi, bổ sung)”, Lê Minh Hùng (Chủ biên), Nhà xuất

bản Hồng Đức là các tài liệu đã hệ thống được các kiến thức lý luận cơ bản nhất về

hai khái niệm quan trọng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, cụ thể là “Tài sản” và

“Giao dịch” để tạo tiền đề cho việc triển khai nghiên cứu.

Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), “Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình

Việt Nam”, Nguyễn Văn Cừ (Chủ biên), Nhà xuất bản Công an Nhân dân. Công

trình đã phân tích các vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng, bao gồm cả

quyền xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng

trong giai đoạn Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực. Dù vậy, vì là một

công trình tổng hợp cho mục đích giảng dạy, các vấn đề chuyên biệt về giao dịch

liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký vẫn chưa

được làm rõ, đặc biệt là về khía cạnh thực tiễn.

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), “Giáo trình luật hôn

nhân và gia đình Việt Nam (Tái bản có sửa đổi, bổ sung)”, Nguyễn Văn Tiến (Chủ

biên), Nhà xuất bản Hồng Đức. Công trình làm rõ những vấn đề lý luận về chế độ

tài sản của vợ chồng và quyền định đoạt tài sản đó một cách khái quát trong bối

cảnh khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được ban hành để thay thế cho luật

cũ. Qua đó, chỉ ra những điểm mới, lợi thế khi áp dụng pháp luật thực định hiện nay

so với giai đoạn trước, nêu ra được các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ tài sản của vợ

chồng đối với giao dịch do một bên vợ chồng thực hiện. Tuy nhiên, do vẫn là một

công trình bao quát mang tính giảng dạy, góc độ thực tiễn và nghiên cứu chuyên

biệt đối với giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không

phải đăng ký cũng chưa thực sự được quan tâm.

Nguyễn Ngọc Điện và Đoàn Thị Phương Diệp (Đồng chủ biên) (2020), Sách

chuyên khảo – “Pháp luật về quan hệ tài sản giữa vợ chồng”, Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ thống lý luận cơ bản cho quan

hệ tài sản giữa vợ và chồng trong hôn nhân gia đình. Bên cạnh đó, các quy định

4

hiện hành cũng được đánh giá và so sánh với pháp luật nước ngoài (Pháp, Đức,

Nhật Bản) để đưa ra các kiến nghị dưới góc nhìn riêng của tác giả.

Lê Vĩnh Châu (chủ biên) (2018), “Sách tình huống (bình luận bản án) Luật

Hôn nhân và gia đình”, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam đã khai

thác và dẫn chứng nhiều tình huống thực tiễn về giao dịch liên quan đến tài sản

chung của vợ chồng trong đời sống hôn nhân gia đình. Cụ thể là tại Chủ đề 15, tác

giả đã tập trung phân tích giá trị pháp lý của các giao dịch liên quan đến tài sản

chung do một bên vợ, chồng thực hiện một cách chi tiết và cụ thể thông qua các bản

án với góc độ của quyền tự định đoạt của vợ chồng và giới hạn của việc định đoạt

đó. Tuy nhiên, tài sản được đề cập, phân tích (dựa theo các bản án) đều là bất động

sản như nhà, đất. Riêng đối với các tài sản là động sản không phải đăng ký, Chủ đề

20 về việc định đoạt tài sản chung không cần sự đồng ý của người còn lại đã dẫn

chứng tiền trong tài khoản ngân hàng và cổ phiếu tại các giao dịch tranh chấp tại

bản án làm cơ sở phân tích để cho thấy sự phù hợp của pháp luật hôn nhân gia đình

Việt Nam với xu thế quốc tế (cụ thể là Bộ Luật dân sự Pháp), tuy nhiên do hạn chế

chỉ trong phạm vi của một chủ đề tại công trình nên tác giả chưa đi sâu và làm rõ

các bất cập có liên quan.

Bên cạnh đó, về mặt kiến thức chung, các tài liệu như Nguyễn Văn Cừ, Trần

Thị Huệ (Đồng Chủ Biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của

nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân; Lê

Minh Hùng (2015), Hình thức của Hợp đồng – Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản

Hồng Đức; và Trương Nhật Quang (2020), Pháp luật về hợp đồng – các vấn đề

pháp lý cơ bản, Nhà xuất bản Dân Trí cũng đã phân tích, làm rõ, giúp chúng ta nhìn

nhận thấu đáo hơn về những vấn đề cơ bản liên quan đến giao dịch, tài sản, hình

thức giao dịch, từ đó tạo tiền đề để phát triển nghiên cứu trong pháp luật chuyên

ngành.

- Về luận án, luận văn:

Lê Hữu Khang (2018), Đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu

theo pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí

Minh đã làm rõ được các các vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài

là các động sản không phải đăng ký. Tuy nhiên, Luận văn lại tập trung khai thác

một khía cạnh khác đối với loại tài sản này, cụ thể là quyền đòi lại theo quy định

pháp luật Việt Nam.

Phan Thị Trúc Phương (2019), Quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng,

5

Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã làm rõ được

các vấn đề cơ bản liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, chỉ ra được những bất

cập, tồn tại trong quyền định đoạt của vợ chồng đối với loại tài sản trong bối cảnh

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đang có hiệu lực. Tuy nhiên, Luận văn còn tập

trung nhiều vào các bất cập trong việc định đoạt đối với tài sản chung là bất động

sản và phương hướng giải quyết khi tranh chấp liên quan phát sinh. Dù vậy, các

kiến thức tổng quát được trình bày tại Luận văn đối với tài sản chung sẽ là tiền đề

quan trọng để tác giả tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu đối với một loại tài sản chung

khác là động sản không phải đăng ký, cũng như các giao dịch liên quan đến loại tài

sản này.

- Các bài viết tạp chí:

Đỗ Văn Đại và Nguyễn Nhật Thanh (2015), “Trách nhiệm liên đới của vợ

chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5

đã có các phân tích và bình luận chuyên sâu liên quan đến trách nhiệm liên đới của

vợ chồng đối với giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện. Tuy nhiên, phạm

vi bài viết vẫn chưa đi sâu nghiên cứu riêng biệt, toàn diện về giao dịch liên quan

đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký.

Nguyễn Hải An (2014), “Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng đối với

hợp đồng dân sự do một bên thực hiện”, Tạp chí tòa án nhân dân, số 12; Đỗ Văn

Đại, “Trao đổi về bài: Một số vấn đề trao đổi về di chúc của một bên vợ chồng định

đoạt tài sản chung”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 15 năm 2010 cũng đều tập trung

khai thác, phân tích, đánh giá quy định pháp luật cũng như thực tiễn giải quyết tranh

chấp xoay quanh giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là nhà ở,

quyền sử dụng đất (bất động sản) mà không có động sản không phải đăng ký.

Từ các viện dẫn nêu trên, tình hình nghiên cứu đề tài xin được tổng quan như

sau:

Thứ nhất, các công trình, bài viết về giao dịch liên quan đến tài sản chung do

một bên vợ chồng thực hiện đa số tập trung nghiên cứu đối với giao dịch liên quan

đến tài sản chung của vợ chồng là bất động sản (hay có thể liên hệ đến động sản

phải đăng ký do cùng cơ chế pháp định điều chỉnh) mà chưa có sự quan tâm đúng

mức về loại tài sản là động sản không phải đăng ký.

Thứ hai, tuy vẫn có một số ít công trình, bài viết đề cập đến giao dịch liên

quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký nhưng chỉ

dừng lại ở việc khái quát, định hướng vấn đề mà chưa có một công trình nghiên cứu

6

chuyên sâu với sự phân tích và đánh giá bài bản, trong quy mô của một công trình

nghiên cứu khoa học chuyên biệt về quy định pháp luật hiện hành cũng như thực

tiễn áp dụng.

Như vậy, đề tài “Giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là

động sản không phải đăng ký theo pháp luật dân sự Việt Nam” này cho đến hiện

nay dù có một số nguồn tài liệu tham khảo như đã đề cập ở trên, nhưng thực trạng

vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức đối với loại tài sản chung này. Đề tài sẽ là một

một thách thức lớn cho tác giả khi tiếp tục đào sâu, nghiên cứu và kế thừa, phát huy

những nền tảng có sẵn cả về mặt lý luận và thực tiễn, để từ đó góp phần hoàn thiện

hơn các bất cập còn tồn tại trong hệ thống pháp luật hiện hành.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản về giao dịch liên

quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký dưới góc độ

các quy định pháp lý hiện hành, nêu ra những bất cập, thiếu sót còn tồn tại khi áp

dụng các quy định này vào thực tiễn. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện

pháp luật, làm cơ sở giải quyết khi tranh chấp phát sinh liên quan đến các giao dịch

này, đảm bảo được quyền lợi của các bên, bao gồm cả người vợ hoặc chồng không

tham gia vào giao dịch.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để có thể đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có một số nhiệm

vụ cụ thể như sau:

Thứ nhất, làm rõ được những vấn đề lý luận và quy định pháp luật đối với

giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký

như: các khái niệm, đặc điểm về giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng

là động sản không phải đăng ký, quyền định đoạt của vợ chồng tham gia vào giao

dịch; Mục đích và ý nghĩa của việc công nhận quyền định đoạt của vợ chồng tham

gia vào giao dịch.

Thứ hai, đánh giá thực tiễn, chỉ ra bất cập, vướng mắc về giao dịch liên quan

đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký.

Thứ ba, đề xuất phương án, giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý cho các bất

cập được đặt ra với kiến nghị cụ thể theo góc nhìn của tác giả nhằm nâng cao khả

năng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ hoặc chồng không tham gia

vào giao dịch.

7

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu

4.1 Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải

đăng ký được điều chỉnh cơ bản bởi pháp luật dân sự và pháp luật hôn nhân gia

đình. Do vậy, với hạn chế về số lượng nội dung được phép trình bày trong khuôn

khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu quy định điều chỉnh

trực tiếp nhất mối quan hệ này dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 trên cơ sở đối chiếu với Luật Hôn nhân và gia

đình năm 2000, Bộ Luật dân sự năm 2005, Bộ Luật dân sự năm 2015 đối với các

giao dịch do một bên vợ, chồng tự thực hiện và các văn bản hướng dẫn thi hành

Luật Hôn nhân và gia đình. Đồng thời, đối chiếu với pháp luật của Pháp - một quốc

gia có bề dày lịch sử áp dụng hệ thống dân luật (Civil Law).

- Về không gian: luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật Việt

Nam đối với giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không

phải đăng ký, cùng với các vụ việc tranh chấp đã được giải quyết bằng bản án,

quyết định của cơ quan có thẩm quyền tại Việt Nam. Đồng thời, có tham khảo một

số quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng tại Pháp để phục vụ công tác nghiên cứu.

- Về thời gian: luận văn tập trung nghiên cứu các quy định điều chỉnh giao

dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký cũng

như việc áp dụng các quy định có liên quan từ 01/01/2001 đến nay (kể từ khi Luật

Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thi hành).

4.2 Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận của

chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử với mục đích là giúp tác

giả xác định được nền tảng cho lý luận nhận thức liên quan đến đề tài.

Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng một số các phương pháp khác để thực hiện

nghiên cứu như sau:

- Phương pháp giải thích luật: được sử dụng xuyên suốt cả luận văn để giải

thích nội dung của các quy định pháp luật hiện hành đối với giao dịch liên quan đến

tài sản chung của vợ chồng là động sản không phải đăng ký. Từ đó, làm rõ được các

vấn đề cơ bản, phân tích các bất cập trong quy định hiện hành và đưa ra kiến nghị,

đề xuất cho việc hoàn thiện.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!