Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

T
PREMIUM
Số trang
190
Kích thước
70.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1078

Giám định theo luật tố tụng hình sự Việt Nam

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN AN HỮU

GIÁM ĐỊNH

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

GIÁM ĐỊNH

THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Định hướng ứng dụng

Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Nguyên Thanh

Học viên : Nguyễn An Hữu

Lớp : Cao học luật, An Giang khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Giám định theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”

là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê

Nguyên Thanh. Các số liệu ghi trong luận văn là có thật, kết quả nghiên cứu là trung

thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2022

Tác giả luận văn

Nguyễn An Hữu

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT TÊN ĐẦY ĐỦ

BLHS 2015 Bộ luật Hình sự năm 2015

BLTTHS 2015 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

BCA Bộ Công an

BTP Bộ Tư pháp

TANDTC Tòa án nhân dân tối cao

VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao

TNHS Trách nhiệm hình sự

TTHS Tố tụng hình sự

THTT Tiến hành tố tụng

VAHS Vụ án hình sự

CQĐT Cơ quan điều tra

CSĐT Cảnh sát điều tra

KLGĐ Kết luận giám định

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1

CHƯƠNG 1. TRƯNG CẦU GIÁM ĐỊNH THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VIỆT NAM ................................................................................................................5

1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trưng cầu giám định .............5

1.1.1. Thời điểm trưng cầu giám định ..................................................................5

1.1.2. Thẩm quyền trưng cầu giám định...............................................................6

1.1.3. Trình tự, thủ tục trưng cầu giám định ......................................................13

1.2. Thực tiễn trưng cầu giám định trong tố tụng hình sự..............................14

1.2.1. Tình hình thực hiện hoạt động giám định ................................................14

1.2.2. Những hạn chế, vướng mắc về trưng cầu giám định................................15

1.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc về trưng cầu giám định ...22

1.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trưng cầu giám định trong tố tụng

hình sự..................................................................................................................24

1.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và hướng dẫn áp dụng về

trưng cầu giám định ...........................................................................................24

1.3.2. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả trưng cầu giám định trong tố

tụng hình sự ........................................................................................................25

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................27

CHƯƠNG 2. KẾT LUẬN GIÁM ĐỊNH THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VIỆT NAM ..............................................................................................................28

2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kết luận giám định..............28

2.1.1. Kết luận giám định và các loại kết luận giám định..................................28

2.1.2. Hình thức và nội dung của kết luận giám định trong tố tụng hình sự......32

2.1.3. Đánh giá và sử dụng kết luận giám định..................................................35

2.2. Thực tiễn về kết luận giám định trong tố tụng hình sự............................38

2.2.1. Thực tiễn về những hạn chế trong kết luận giám định.............................38

2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế .............................................................42

2.3. Giải pháp bảo đảm chất lượng kết luận giám định trong tố tụng hình sự

..............................................................................................................................44

2.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về kết luận giám định ...44

2.3.2. Giải pháp khác nhằm bảo đảm chất lượng kết luận giám định ...............45

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................48

KẾT LUẬN..............................................................................................................49

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong tố tụng hình sự, giám định là một công cụ quan trọng, phục vụ đắc lực

cho hoạt động điều tra, cung cấp nguồn chứng cứ khoa học làm căn cứ nhằm xác

định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, tính chất

và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Giám định góp phần quan trọng vào

việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự được chính xác, khách quan và đúng

pháp luật.

Trong những năm qua, hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung và hoạt động giám

định trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng đã có bước phát triển mạnh mẽ, nhiều

hoạt động có tính đột phá nhờ thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo tinh thần

Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược Cải cách

tư pháp đến năm 2020”, điển hình như: từng bước thực hiện xã hội hóa đối với các

lĩnh vực có nhu cầu giám định, xây dựng quy định chuẩn mực cho từng lĩnh vực và

xác định cơ chế đánh giá kết luận giám định bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm

căn cứ giải quyết vụ việc. Đặc biệt với các quy định mới, sự tiến bộ của Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015, Luật giám định tư pháp năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm

2020, hoạt động giám định trong tố tụng hình sự ngày càng được khẳng định và hoàn

thiện. Theo đó, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có quy định mới về thời hạn giám

định cho từng trường hợp trưng cầu giám định (Điều 208), mở rộng thẩm quyền trưng

cầu giám định đối với cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan Bộ đội biên phòng, Hải

quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao một số nhiệm vụ tiến

hành hoạt động điều tra trong các trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội quả

tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng (điểm d khoản 2 Điều 39); Luật

giám định tư pháp năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 đã mở rộng phạm vi giám

định tư pháp theo hướng được trưng cầu ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự thay

cho từ giai đoạn điều tra như trước đây (khoản 1 Điều 2), quy định mới về nội dung

kết luận giám định phải rõ ràng, cụ thể về nội dung chuyên môn của đối tượng cần

giám định theo trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp (Điều 32).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tiễn hoạt động giám

định trong tố tụng hình sự vẫn còn nhiều vướng mắc, hạn chế làm ảnh hưởng đến

tiến độ giải quyết vụ án cũng như quyền lợi hợp pháp của đương sự. Điển hình như

về giá trị pháp lý của kết luận giám định trong trường hợp giám định lại, cơ quan tố

tụng sẽ sử dụng kết luận nào để làm căn cứ truy tố, xét xử; kết luận giám định lần

2

hai có phải là kết quả cuối cùng hay không thì luật chưa quy định cụ thể. Về thời

hạn giám định, tuy Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định thời hạn giám

định nhưng chưa quy định thời hạn cụ thể cho từng lĩnh vực. Công tác giám định

trong các lĩnh vực tài chính, kế toán, ngân hàng, tiền tệ trong các vụ án kinh tế,

tham nhũng ở các địa phương còn gặp nhiều khó khăn khi các đơn vị, tổ chức, cá

nhân có trách nhiệm giám định từ chối do năng lực trình độ chuyên môn của giám

định viên bị hạn chế hoặc né tránh trách nhiệm. Mặt khác, dù hiện nay Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015 và Luật giám định tư pháp năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm

2020 đã có hiệu lực thi hành nhưng việc ban hành Nghị định và các văn bản hướng

dẫn thi hành vẫn còn chậm, một số bộ, cơ quan ngang bộ chưa kịp thời ban hành

các văn bản hướng dẫn về giám định trong lĩnh vực chuyên ngành, một số quy định

còn chồng chéo, mâu thuẫn chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời.

Xuất phát từ yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm, xử lý đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, tránh làm oan sai, bỏ lọt tội phạm và giữ vững an ninh

chính trị và trật tự an toàn xã hội góp phần tạo môi trường thuận lợi, an toàn, ổn

định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, việc đánh giá đúng

thực trạng công tác giám định trong các vụ án để đưa ra giải pháp thích hợp nhằm

nâng cao hiệu quả công tác giám định phục vụ tốt cho công tác giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là

rất cần thiết góp phần giải quyết các vụ án một cách khoa học, khách quan; đảm bảo

truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội

phạm. Với những lý do trên tác giả chọn đề tài “Giám định theo luật tố tụng hình

sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong thời gian qua, các vấn đề liên quan đến giám định được sự quan tâm

của Đảng, Nhà nước, cán bộ hoạt động thực tiễn,… có nhiều bài viết về hoạt động

giám định nói chung như:

Về bài báo khoa học: Trần Việt Vân, Nâng cao hiệu quả hoạt động giám định

hình dấu đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số

13/2021; Phạm Long Hải, Trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự của

người giám định đối với hoạt động giám định tư pháp Tạp chí Tòa án nhân dân

năm, Số 22/2021; Đỗ Huy Bình – Đào Bảo Long, Một số khó khăn, vướng mắc

trong áp dụng pháp luật đối với tội mua bán trái phép chất ma túy và giải pháp

khắc phục, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 1/2022…

3

Nội dung của các bài báo chủ yếu phân tích quy định trách nhiệm của người

thực hiện giám định đối với hoạt động giám định tư pháp đồng thời kiến nghị một

số vấn đề nhằm triển khai có hiệu quả các quy định này trong thời gian tới.

Về góc độ nghiên cứu đã có một số đề tài nghiên cứu về vấn đề này:

Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Loan “Giám định tư pháp trong tố tụng hình

sự Việt Nam”, Học viện Khoa học xã hội năm 2014.

Luận án Tiến sĩ của Bùi Quang Anh “Giám định kỹ thuật hình sự trong điều tra

tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân dân”, Học viện Cảnh sát nhân dân khóa 2009.

Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Thủy “Giám định tư pháp hình sự

theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Học viện

Khoa học xã hội năm 2016.

Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Kiều Trang “Kết luận giám định trong luật

TTHS Việt Nam”, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh năm 2018.

Các luận án và luận văn được viết theo định hướng nghiên cứu, phần nội dung

chủ yếu phân tích về mặt lý luận của hoạt động giám định nói chung và kết luận giám

định trong tố tụng hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Luật giám định tư

pháp 2012, phần thực tiễn có đề cập nhưng chủ yếu phân tích chung chung.

Nghiên cứu các công trình trên đã giúp tác giả hiểu rõ hơn về đề tài mà mình

đã chọn. Tác giả sẽ tiếp tục kế thừa và phát triển những vấn đề về mặt lý luận của

hoạt động giám định trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, để đảm bảo tính mới trong

luận văn của mình, phù hợp với yêu cầu của một luận văn theo định hướng ứng

dụng, tác giả sẽ tiến hành phân tích từng Chương là một vấn đề pháp lý độc lập trên

cơ sở các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Luật giám định tư pháp 2012,

sửa đổi, bổ sung năm 2020 và thực tiễn áp dụng hoạt động giám định trong giải

quyết các vụ án hình sự, từ đó nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong quá trình

áp dụng và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giám định trong tố tụng

hình sự.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn được thực hiện nhằm làm rõ những vấn đề nhận thức, pháp luật và

thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp đối với trưng cầu giám định và kết luận giám

định trong TTHS.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, đề tài cần giải quyết được các nhiệm vụ sau:

4

- Nghiên cứu vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về trưng cầu giám

định và kết luận giám định.

- Phân tích, đánh giá một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn TTHS về

trưng cầu giám định và kết luận giám định.

- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trưng cầu giám định và

kết luận giám định.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Khía cạnh pháp lý và thực tiễn về trưng cầu giám định, kết luận giám định

trong TTHS.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: đề tài được nghiên cứu trong phạm vi trưng cầu giám định và

kết luận giám định theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và pháp luật

khác có liên quan đến giám định tư pháp.

- Về không gian vấn đề nghiên cứu được đánh giá chủ yếu: trên địa bàn tỉnh

An Giang và một số địa phương trong cả nước.

- Về thời gian: vấn đề nghiên cứu dựa vào tài liệu về thực tiễn giám định

được thực hiện từ năm 2015 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,

duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp và phòng,

chống tội phạm.

- Luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:

- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp về vấn đề nhận thức và quy định

của pháp luật TTHS liên quan đến trưng cầu giám định và kết luận giám định.

- Phương pháp thống kê về tình hình tiến hành các hoạt động giám định trong

TTHS ở An Giang.

- Phương pháp nghiên cứu tình huống pháp lý điển hình của một số vụ án nhằm

chứng minh những tồn tại, hạn chế của pháp luật và thực tiễn giám định hiện hành.

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm hai chương:

Chương 1. Trưng cầu giám định theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Chương 2. Kết luận giám định theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.

5

CHƯƠNG 1

TRƯNG CẦU GIÁM ĐỊNH THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trưng cầu giám định

1.1.1. Thời điểm trưng cầu giám định

Về thời điểm trưng cầu giám định: có thể thực hiện ngay từ giai đoạn giải quyết

tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố (khoản 3 Điều 147 BLTTHS 2015). Quy

định thời điểm trưng cầu giám định chưa được BLTTHS năm 2003 quy định ở một

điều luật cụ thể riêng biệt. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật giám định

tư pháp 2012 thì: “Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến

thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên

môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án

hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu

cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này”. Do đó, căn cứ theo quy

định này có thể xác định thời điểm trưng cầu giám định là từ giai đoạn điều tra VAHS.

Khi BLTTHS 2015 được ban hành đã có những quy định mới về hoạt động

giám định như tách phần giám định định giá tài sản ra thành một chương riêng

(Chương XV), mở rộng thời điểm trưng cầu giám định sớm hơn khi cho phép cơ

quan có thẩm quyền khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có

quyền trưng cầu giám định. Tại khoản 3 Điều 147 BLTTHS 2015 quy định: “Khi

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền có

quyền tiến hành các hoạt động: a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ

chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin; b) Khám nghiệm hiện

trường; c) Khám nghiệm tử thi; d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản”1

.

Ví dụ: trưng cầu giám định trong giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ

quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Châu Đốc trong vụ án “Hiếp dâm người

dưới 16 tuổi” xảy ra tại khách sạn Đồng Xanh thuộc tổ 05, khóm Hòa Bình, phường

Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang phát hiện ngày 12/02/2018”2

.

Luật giám định tư pháp 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 cũng có quy định

mới về sửa đổi thời điểm trưng cầu giám định, cho phép việc trưng cầu giám định

1 Khoản 3 Điều 147 BLTTHS 2015.

2 Thông báo số: 352, ngày 20/6/2018 của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang thông

báo kết luận giám định đối với bà Phùng Thị Kim Ngân trong tố giác về tội phạm “Hiếp dâm người dưới 16

tuổi” xảy ra tại khách sạn Đồng Xanh thuộc tổ 5, khóm Hòa Bình, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang vào

khoảng tháng 10 năm 2017.

6

được thực hiện từ giai đoạn khởi tố VAHS. Theo đó, khoản 1 Điều 2 Luật giám

định tư pháp 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 quy định: “Giám định tư pháp là việc

người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ

thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt

động điều tra, truy tố, xét xử,…”. Kết luận trong trưng cầu giám định mang tính

khoa học, là một trong những nguồn chứng cứ được thu thập theo thủ tục tố tụng,

làm căn cứ cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xem xét,

đánh giá và quyết định khi giải quyết vụ án.

1.1.2. Thẩm quyền trưng cầu giám định

Trưng cầu giám định có thể được tiến hành trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào

của qua trình giải quyết vụ án. Do nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THTT trong

mỗi giai đoạn tố tụng không giống nhau nên thẩm quyền trưng cầu giám định của

từng cơ quan THTT cũng khác nhau. Theo BLTTHS 2015, thẩm quyền trưng cầu

giám định thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,

Tòa án được quy định tại các Điều 36, 41,45, 205. Về nguyên tắc, cả ba cơ quan trên

đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp trưng cầu giám định để thu thập chứng cứ phục

vụ cho việc giải quyết vụ án. Ngoài ra, tại Điều 39, 40 của BLTTHS 2015 cũng bổ

sung thêm thẩm quyền trưng cầu giám định của các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra như: Các cơ quan của Bộ đội Biên phòng; Các cơ

quan của Hải quan; Các cơ quan của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát

biển; Các cơ quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân

dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Các cơ quan cụ thể

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại khoản này được

quy định tại Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.

Để xác định cụ thể thẩm quyền trong từng giai đoạn không chỉ căn cứ vào

quy định của BLTTHS về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan và người tiến hành tố

tụng trong các giai đoạn mà còn căn cứ vào từng chức danh tố tụng quy định trong

phần “Những quy định chung” của BLTTHS.

“Người yêu cầu giám định” là khái niệm mới được Luật giám định tư pháp

2012 thể chế hóa, theo đó: “Người yêu cầu giám định là người có quyền tự mình

yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp

nhận. Người có quyền tự mình yêu cầu giám định bao gồm đương sự trong vụ việc

7

dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ, trừ

trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự

của bị can, bị cáo” (Khoản 3 Điều 2 Luật Giám định tư pháp 2012).

1.1.2.1. Người có quyền trưng cầu giám định

Trưng cầu giám định là một trong những hoạt động tố tụng quan trọng do các

cơ quan THTT thực hiện nhằm thu thập chứng cứ phục vụ cho việc xác định sự thật

khách quan của VAHS. Khoản 1 Điều 205 BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi

thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 206 của Bộ luật này hoặc khi xét

thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu

giám định”. Tại khoản 2 Điều 2 Luật giám định tư pháp 2012, sửa đổi, bổ sung năm

2020 quy định người trưng cầu giám định bao gồm cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Như vậy, căn cứ theo quy

định của BLTTHS năm 2015 và Luật giám định tư pháp 2012, sửa đổi, bổ sung năm

2020 thì thẩm quyền trưng cầu giám định thuộc về cơ quan có thẩm quyền THTT và

người có thẩm quyền THTT. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS: thẩm quyền trưng cầu giám

định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Điều này được quy định tại

điểm d khoản 2 Điều 36 BLTTHS năm 2015: “Khi tiến hành tố tụng hình sự, Thủ

trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ, quyền hạn: Quyết định trưng cầu giám

định...” và khoản 3 Điều 36 BLTTHS năm 2015: “Khi được phân công tiến hành việc

khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ,

quyền hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, trừ quy định tại điểm b khoản 1

Điều này...”. Ngoài ra, để khắc phục những điểm hạn chế của BLTTHS năm 2003,

BLTTHS năm 2015 đã mở rộng thẩm quyền trưng cầu giám định đối với cấp trưởng,

cấp phó của các cơ quan Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát

biển, Kiểm ngư được giao một số nhiệm vụ tiến hành hoạt động điều tra trong các

trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người

phạm tội rõ theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 39 BLTTHS năm 2015.

Ví dụ: Vụ án: Leang Davy (Phan Thị Lan) “Vận chuyển trái phép chất ma

túy” của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang3

; Trưng cầu giám định theo Quyết định

3 Quyết định trưng cầu giám định số: 06/QĐ-ĐCKLB, ngày 06/9/2020 của Đồn trưởng Đồn biên phòng Cửa

khẩu Long Bình, Bộ đội Biên phòng tỉnh An Giang; Kết luận giám định số: 225/KLGT-PC09(MT), ngày

07/9/2020 của phòng Kỹ thuật Hình sự, Công an tỉnh An Giang; Bản án số: 03/2021/HS-ST, ngày 12-3-2021

của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.

8

của Đồn trưởng Đồn Biên phòng Cửa khẩu Long Bình, Bộ đội Biên phòng tỉnh An

Giang. Vụ án: Lê Hoàng Anh (Béo) “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Tòa án

nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau; Trưng cầu giám định theo Quyết định của

Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau4

.

Thứ hai, trong giai đoạn truy tố VAHS: thẩm quyền trưng cầu giám định của

Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát căn cứ quy định tại điểm đ khoản 2

Điều 41 BLTTHS năm 2015: “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân

theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những

nhiệm vụ, quyền hạn: Quyết định trưng cầu giám định” và khoản 3 Điều 41

BLTTHS năm 2015: “Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có

những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, trừ quy định

tại điểm b khoản 1 Điều này”.

Thứ ba, trong giai đoạn xét xử: thẩm quyền trưng cầu giám định của Thẩm

phán chủ tọa phiên tòa được quy định tại khoản 2 Điều 45 BLTTHS năm 2015:

“Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1

Điều này và nhiệm vụ, quyền hạn: Quyết định trưng cầu giám định”. Việc quy định

Thẩm phán có quyền trưng cầu giám định là quy định mới trên cơ sở sửa đổi, bổ

sung Điều 39 BLTTHS năm 2003.

Tại khoản 1 Điều 207 BLTTHS 2015 quy định về yêu cầu giám định với nội

dung cụ thể như sau: “Đương sự hoặc người đại diện của họ có quyền đề nghị cơ quan

có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến

quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác

định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày

nhận được văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng

cầu giám định. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thông báo cho người đã đề

nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do. Hết thời hạn này hoặc kể từ ngày

nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng thì người đề nghị giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định”.

Như vậy, BLTTHS 2015 đã có những quy định rất mở về đối tượng có quyền

trưng cầu giám định. Trưng cầu giám định có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc

xác lập, củng cố chứng cứ. Trong nhiều trường hợp, trưng cầu giám định có thể làm

thay đổi tính chất vụ án là một trong những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến kết

4 Bản án số: 36/2018/HS-ST, ngày 28-9-2018 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.

9

quả của bản án. Vì vậy, để đảm bảo tính khác quan, công bằng, xét xử đúng người,

đúng tội, việc trưng cầu giám định không chỉ được quyết định bởi cơ quan, người

tiến hành tố tụng mà chính các đương sự của vụ án hình sự cũng được trao quyền

yêu cầu giám định.

Tuy nhiên, về người có thẩm quyền trưng cầu giám định, luật Tố tụng hình sự

chưa quy định đồng bộ giữa những người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan THTT.

Cụ thể là BLTTHS 2015 ở phần chung đã quy định thẩm quyền trưng cầu giám định

cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện

kiểm sát nhưng lại không quy định cụ thể thẩm quyền trưng cầu giám định cho Chánh

án, Phó chánh án Tòa án (Điều 36, Điều 41, Điều 44 BLTTHS 2015). Ngoài ra, Điều

tra viên được phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự được tiến

hành khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, khám nghiệm tử thi... nhưng lại

không có thẩm quyền trưng cầu giám định là điều bất hợp lý.

1.1.2.2. Các trường hợp bắt buộc trưng cầu giám định

Trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định những vấn

đề sau: Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực

trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại

khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những

tình tiết của vụ án; Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với

việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có

nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; Nguyên nhân chết người; Tính chất

thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; Chất ma tuý, vũ khí

quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim

khí quý, đá quý, đồ cổ; Mức độ ô nhiễm môi trường.

Ví dụ: Quyết định trưng cầu giám định của Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát

điều tra, Công an huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang trưng cầu Phân viện Khoa học

hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh giám định đạn

5

.

Như vậy, khi cần xác định một trong các vấn đề nêu trên thì bắt buộc phải

tiến hành trưng cầu giám định.

Về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định được quy định tại Điều

206 BLTTHS năm 2015, khi cần phải xác định một trong các vấn đề sau:

5 Quyết định trưng cầu giám định số: 21/QĐ, ngày 18/02/2021 của Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra

Công an huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và Kết luận giám định số: 1186/C09B, ngày 19/02/2021 của Phân

viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!