Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN THÀNH
GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ CỦA VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI
NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
BÌNH THUẬN, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ CỦA VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI
NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số chuyên ngành: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĨNH CHÂU
Học viên: NGUYỄN VĂN THÀNH
Lớp: Cao học Luật Bình Thuận, Khoá 2
BÌNH THUẬN - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và
nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Lê
Vĩnh Châu. Nội dung của Luận văn có tham khảo và sử dụng một số thông tin từ
các Bộ luật, nguồn sách, tạp chí, tài liệu, các trang thông tin điện tử, báo mạng...
được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo.
Tác giả Luận văn
Nguyễn Văn Thành
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Chữ được viết thường Chữ được viết tắt
01 Hôn nhân và gia đình HN&GĐ
02 Hội đồng xét xử HĐXX
03 Ủy ban nhân dân UBND
04 Bộ luật Dân sự năm 2015. BLDS
05 Luật Hộ tịch năm 2015 LHT
06 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 27/12/2005 quy
định về đăng ký và quản lý hộ tịch
NĐ số 123/2015
07 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 quy
định về đăng ký và quản lý hộ tịch
NĐ số 158/2005
08 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 về
việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
NQ số 35/2000
09 Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTCBTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật hôn nhân và gia đình
TTLT số 01/2016
10 Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 hướng
dẫn nghị quyết số 35/2000/QH10
NĐ số 77/2001
11 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT- TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 hướng dẫn thi hành
một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình
TTLT số 01/2001
12 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000
hướng dẫn áp dụng một số quy định luật hôn nhân và
gia đình
NQ số 02/2000
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VỀ QUAN HỆ NHÂN THÂN,
QUYỀN LỢI CON CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NAM, NỮ CHUNG
SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN.........................8
1.1. Giải quyết về quan hệ nhân thân ..................................................................8
1.2. Giải quyết quyền lợi của con chung. ...........................................................18
Kết luận chương 1................................................................................................26
CHƯƠNG 2: GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN, NGHĨA VỤ
VÀ HỢP ĐỒNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG NHƯ
VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN. ............................................27
2.1. Giải quyết về quan hệ tài sản.......................................................................27
2.2. Giải quyết về nghĩa vụ, hợp đồng................................................................38
Kết luận chương 2................................................................................................42
KẾT LUẬN..............................................................................................................43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hôn nhân là cơ sở của gia đình - tế bào của xã hội, quan hệ hôn nhân và gia
đình thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Gia đình là nền tảng của xã hội, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Việc ổn định và bảo vệ các quan hệ hôn nhân và gia đình
là vô cùng quan trọng và cần thiết. Do đó, hệ thống các quy định của pháp luật điều
chỉnh trong lĩnh lực hôn nhân và gia đình không những phải đáp ứng được định
hướng pháp luật mà còn phải phù hợp với thực tiễn xã hội. Qua mười ba năm Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 đi vào cuộc sống đã góp phần xây dựng và hoàn
thiện chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, hạnh phúc, phát huy được những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ngày nay, đất nước có nhiều sự đổi thay, đời sống
vật chất cũng như tinh thần của người dân không ngừng được phát triển, các quan
hệ hôn nhân và gia đình cũng có những thay đổi đáng kể, Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế gây khó khăn cho người dân cũng như
cơ quan thực thi pháp luật. Tình trạng nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn là một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội nước ta và
ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước
đang trong quá trình đẩy mạnh nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chính
sách mở cửa, giao lưu với tất cả các quốc gia trên thế giới, mặt trái của nền kinh tế
thị trường đã làm thay đổi không nhỏ tới quan điểm về tình yêu và hôn nhân; với
tâm lý ngại đi đăng ký kết hôn bởi lý do không muốn thực hiện các thủ tục hành
chính, con người với lối sống tự do, phóng túng, không muốn bị ràng buộc về mặt
pháp lý, thậm chí nhiều cặp vợ, chồng còn không muốn tổ chức đám cưới, vì họ
thấy các lễ nghi tổ chức phiền phức mà chỉ cần về sống với nhau là đủ. Việc chung
sống này thể hiện dưới các dạng thức khác nhau đã tạo ra nhiều hậu quả không tốt
đối với đời sống hôn nhân và gia đình.
Thời gian qua, mặc dù đã có khá nhiều các văn bản pháp luật được ban hành
như: NQ số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000; NĐ số 77/2001/NĐ-CP ngày
22/10/2001; TTLTsố 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001;
NQ số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2020 hướng dẫn giải quyết đối với trường
hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn nhưng vẫn chưa
có quy định cụ thế về giải quyết hậu quả của tình trạng này đã dẫn tới việc giải
2
quyết các tranh chấp trở nên phức tạp, quyền lợi của các bên chưa được đảm bảo,
công tác xét xử của Tòa án gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng
pháp luật. Đứng trước thực tiễn đó, pháp luật cần phải có những thay đổi để phù
hợp với nhu cầu đặt ra. Luật HN&GÐ năm 2014 ra đời là một bước tiến quan trọng
trong hệ thống pháp luật của nước ta nói chung, trong lĩnh vực HN&GÐ nói riêng.
Luật đã có những quy định cụ thể điều chỉnh đối với trường hợp nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Nghiên cứu và phân tích
những quy định của pháp luật HN&GÐ năm 2014 trong vấn đề giải quyết hậu quả
của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn là đòi hỏi
khách quan và cấp thiết hiện nay, điều này giúp nâng cao ý thức pháp luật của
người dân trong việc xác lập quan hệ hôn nhân, nâng cao hiệu quả trong công tác
xét xử của Tòa án trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Từ đó góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật của nước ta, xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ, xã hội phát
triển. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Giải quyết hậu quả
của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn" làm luận
văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Các tài liệu liên quan việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng luôn
được các nhà khoa học, giảng viên, sinh viên Luật quan tâm; đặc biệt là các tổ chức,
cơ quan Nhà nước, các nhà làm luật. Trong khoa học pháp lý ở nước ta, đã có nhiều
công trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề này như:
Nhóm giáo trình, sách chuyên khảo:
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), “Giáo trình Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam”, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam,
tại Chương IV. Đây là giáo trình, do đó chỉ trình bày những kiến thức cơ bản về
khái niệm không công nhận quan hệ vợ chồng, các trường hợp không công nhận
quan hệ vợ chồng và hậu quả pháp lý của việc không công nhận quan hệ vợ chồng.
Bởi vì nội dung kiến thức được trình bày trong giáo trình nhằm phục vụ cho công
tác giảng dạy, vì vậy không đi sâu vào phân tích cụ thể các trường hợp không công
nhận quan hệ vợ chồng cũng như việc giải quyết hậu quả. Tuy nhiên, đây là những
kiến thức nền tảng hỗ trợ tác giả trong quá trình nghiên cứu. Từ đó, trong phạm vi
bài nghiên cứu, tác giả sẽ triển khai làm rõ những vấn đề về không công nhận quan
hệ vợ chồng.
3
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), “Giáo trình Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tại Chương IV. Giáo trình nêu
trường hợp nam, nữ sống chung mà không được pháp luật công nhận là vợ chồng,
các trường hợp nam, nữ sống chung mà không đăng ký kết hôn và cách giải quyết
khi có yêu cầu ly hôn theo các giai đoạn: Trước ngày 03/01/1987, kể từ ngày
03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 và sau ngày 01/01/2001 trở đi. Vì đây cũng là giáo
trình nên kiến thức được trình bày mang tính khái quát, chưa có sự đề cập và hướng
giải quyết việc không công nhận quan hệ vợ chồng một cách chi tiết. Vì vậy, trong
nghiên cứu của mình, tác giả phân tích một cách đầy đủ, chi tiết vấn đề này nhằm
chỉ ra những bất cập, vướng mắc và hướng hoàn thiện.
- Lê Vĩnh Châu (Chủ biên) (2018), “Sách tình huống (bình luận bản án)
Luật Hôn nhân và gia đình”, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tại
Phần 1. Tác giả đưa ra những tình huống trong những bản án về các vấn đề kết hôn
vi phạm thủ tục kết hôn, chung sống không đăng ký kết hôn, người đang có vợ có
chồng chung sống với người khác như vợ chồng. Qua đó, tác giả phân tích nội dung
của các vụ án và việc áp dụng pháp luật đối với từng vụ án. Tuy nhiên, việc phân
tích này chỉ dừng lại ở giới hạn của bài bình luận. Do đó, tác giả sẽ phân tích toàn
diện hơn trong bài nghiên cứu của mình.
- Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý (2004),“Bình luận khoa học Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”. Nêu các trường hợp không đăng ký kết hôn
mà được công nhận là vợ chồng và các trường hợp không được công nhận là vợ
chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản liên
quan. Tuy nhiên công trình chưa có sự đề cập đến hậu quả pháp lý của việc không
công nhận quan hệ vợ chồng và hướng giải quyết. Bên cạnh đó, công trình này
nghiên cứu dựa trên quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Vì vậy,
trong phạm vi bài nghiên cứu, tác giả sẽ phân tích cụ thể hơn về vấn đề này.
Bài viết tạp chí, hội thảo khoa học:
- Lê Thị Diễm Phương (2015) “Một số ý kiến về giải quyết quan hệ tài sản,
nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn”, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Hội thảo khoa
học. Bài viết phân tích trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng, đưa ra quan
điểm về hợp đồng, quan hệ tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp trong trường hợp nam
nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn cùng với dẫn chứng
pháp luật một số quốc gia trên thế giới. Tác giả đã chỉ ra sự cần thiết phải có các
4
văn bản hướng dẫn và quy định cụ thể hơn để điều chỉnh các mối quan hệ liên quan
đến việc giải quyết quan hệ tài sản giữa nam, nữ sống chung như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên các ý kiến tác giả chỉ mang tính gợi mở, chưa
thật sự cụ thể và rõ ràng để giải quyết hậu quả về quan hệ tài sản.
- Lê Thu Trang (2016), “Quyền lợi của các bên chung sống như vợ chồng
không đăng ký kết hôn mà xin ly hôn”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp,
Số (4 (289)). Tác giả đề cập đến quyền lợi của các bên trong trường hợp nam, nữ
chung sống như vợ chồng trong trường hợp được pháp luật công nhận và không
được pháp luật công nhận. Trong đó có nêu các quy định trong việc giải quyết hậu
quả pháp lý về nhân thân, về tài sản của nam, nữ sống chung như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên tác giả chưa đưa ra được các bất cập và vướng
mắc trong việc giải quyết quyền lợi của các bên chung sống như vợ chồng. Do đó,
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đi sâu tìm hiểu những bất cập,
vướng mắc để đề xuất những giải pháp hoàn thiện.
Lê Thu Trang (2017), “Chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn:
Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật”, Tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, 2017, Số (07). Bài viết đã nêu thực trạng chung sống như vợ
chồng không đăng ký kết hôn ở nước ta hiện nay và khẳng định cần có quy định rõ
việc giải quyết quan hệ tài sản cùng với một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo pháp luật
hiện hành. Nhưng việc kiến nghị còn mang tính khái quát. Vì vậy, trong bài nghiên
cứu của mình, tác giả sẽ đưa ra những đề xuất cụ thể hơn.
Qua các tài liệu nêu trên, có thể thấy rằng, việc nghiên cứu về vấn đề giải
quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn theo Luật HN&GÐ năm 2014 mà tác giả dự kiến triển khai là cần thiết
và không trùng lặp với các nghiên cứu khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật về giải quyết các hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống với
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; qua đó chỉ ra bất cập, vướng mắc
5
nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích, làm rõ quy định của pháp luật về giải quyết hậu quả của việc
nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong công tác giải quyết
các tranh chấp liên quan đến việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn của ngành Tòa án, qua đó chỉ ra bất cập, vướng mắc.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết hậu quả của việc nam,
nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn, nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật trong lĩnh vực này.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài “Hậu quả của việc nam, nữ chung sống
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn", Luận văn xác định đối tượng và phạm vi
nghiên cứu cụ thể như sau:
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận về kết hôn và
chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, quy định của pháp luật
HN&GĐ về việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn ở
Việt Nam; thực tiễn thực hiện pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp của
trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
tại TAND các cấp ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu Luận văn, tác giả sẽ giải quyết các vấn đề sau: Nghiên
cứu các quy định của pháp luật điều chỉnh về vấn đề nam nữ chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn theo quy định của Luật HN&GÐ năm 2014 và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Phần đánh giá thực tiễn: Được tác giả thực hiện thông
qua thực tiễn xét xử tại TAND trong giai đoạn Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, phương pháp chứng minh, phương pháp tổng hợp và
phương pháp bình luận án. Cụ thể:
6
- Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích, lý giải nội dung các quy
phạm pháp luật đang sử dụng nhằm hệ thống một cách khoa học và hợp lý, đồng
thời dự báo sự phát triển các quy định trong tương lai. Phương pháp này được sử
dụng xuyên suốt luận văn, giúp cho người đọc có cái nhìn rõ ràng, chi tiết đối với
vấn đề.
- Phương pháp tổng hợp là phương pháp ngược lại với phương pháp phân
tích nhưng hai phương pháp này lại hỗ trợ lẫn nhau nhằm tìm ra cái chung, cái khái
quát nhất. Tác giả sử dụng phương pháp này để tìm ra bản chất của đối tượng
nghiên cứu. Phương pháp này cũng được sử dụng để tổng kết từng chương và tổng
kết toàn bộ luận văn.
- Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm so sánh những quy định về Hậu
quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
qua từng giai đoạn khác nhau. Thế mạnh của phương pháp này là giúp cho người
đọc có cái nhìn tổng quan, khái quát và rõ ràng về nội dung của đề tài, chỉ ra những
điểm giống và khác nhau giữa các quy định nhằm làm sáng tỏ đề tài. Qua đó, nhận
xét, đánh giá và tiếp thu những ưu điểm cần thiết.
- Phương pháp chứng minh để đưa ra những chứng cứ chứng minh vấn đề
làm tăng sức thuyết phục cho vấn đề nghiên cứu. Phương pháp này cũng được sử
dụng trong toàn bộ các chương của luận văn. Cụ thể tại các Mục 1.1, 1.2 của
Chương 1 và Mục 2.1, 2.2 của Chương 2.
- Phương pháp bình luận án để giải quyết mối quan hệ giữa quy định và thực
tiễn. Tập trung sử dụng phương pháp này để giải quyết vấn đề áp dụng quy định của
pháp luật trong các bản án xét xử trên thực tiễn tại Tòa án nhân dân nhằm tìm ra
những điểm chưa hợp lý, cần có giải pháp hoàn thiện.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động xây
dựng pháp luật của các nhà làm luật; giúp các cơ quan áp dụng pháp luật hiểu sâu
hơn quy định của pháp luật trong vấn đề nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn.
Ngoài ra, Luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động
nghiên cứu, giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta; đặc biệt đối với
chuyên ngành Luật Hôn nhân và gia đình.
7
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
của luận văn được chia thành hai chương:
Chương 1. Giải quyết hậu quả về quan hệ nhân thân, quyền lợi con chung
liên quan đến việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Chương 2: Giải quyết hậu quả về quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng liên
quan đến việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
8
CHƯƠNG 1. GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VỀ QUAN HỆ NHÂN THÂN,
QUYỀN LỢI CON CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NAM, NỮ CHUNG
SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
Kết hôn là một sự kiện pháp lý được pháp luật công nhận mối quan hệ giữa
nam và nữ với tư cách là vợ chồng, có các quyền và nghĩa vụ luật định. Việc kết
hôn chỉ có hiệu lực pháp lý khi được thực hiện theo thủ tục tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khi đáp ứng các điều kiện về kết hôn1
. Nếu không đáp ứng nội dung
này, quan hệ giữa nam và nữ sẽ không được pháp luật bảo vệ một cách đầy đủ và
hoàn thiện nhất như quan hệ vợ chồng hợp pháp về mặt nhân thân và tài sản.
Đối với quan hệ về nhân thân, các vấn đề phát sinh khi các bên không đăng
ký kết hôn cũng khá phức tạp, đặc biệt là về con chung. Pháp luật có sự dự liệu đối
với một số trường hợp nhưng không thể điều chỉnh hết được tất cả nội dung. Do đó,
chương này sẽ phân tích các vấn đề pháp lý, thực tiễn việc giải quyết hậu quả về
nhân thân cũng như giải quyết quyền lợi của con chung liên quan đến việc nam nữ
chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
1.1. Giải quyết về quan hệ nhân thân
Khoản 7 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Chung sống như vợ
chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”. Việc
chung sống này chưa được các bên tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Từ “như” cho thấy rằng, nam và nữ chưa thực hiện thủ tục đăng ký
kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do đó, họ chỉ trên thực tế có sự chung
sống với nhau, có mối quan hệ như vợ chồng mà chưa được pháp luật ghi nhận.
Trong lịch sử, vấn đề này được công nhận khi có nghi lễ nhất định2 nhưng ngày
nay, quan hệ vợ chồng chỉ được xác lập khi có sự đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Trước đây, Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TAND-VKS-BTP có quy
định về trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng nếu họ có đủ điều
kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 và thuộc một trong các
trường hợp: (i) Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau; (ii) Việc họ về
1 Khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014.
2 Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa (2012), Các chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay, NXB.
Tổng hợp TP.HCM, tr.29-38.
9
chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận; (iii) Việc
họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến; (iv) Họ thực
sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Tuy nhiên, sự ghi nhận này chỉ là nhằm mục đích để đảm bảo đủ điều kiện
cho các bên tiến hành đăng ký kết hôn từ ngày 01/01/2001 đến 01/01/2003 nhằm
đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của nam và nữ trong quan hệ vợ chồng hợp pháp.
Song, đây cũng có thể được xem là một trong những trường hợp nam nữ chung
sống với nhau như vợ chồng đó là đáp ứng các điều kiện kết hôn nhưng không tiến
hành đăng ký kết hôn.
Trường hợp thứ hai về việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng đó là
khi nam, nữ không đảm bảo điều kiện kết hôn, chẳng hạn về độ tuổi hay về năng lực
hành vi và không thể đăng ký kết hôn nhưng vẫn chung sống với nhau. Cả hai
trường hợp có thể thấy, dấu hiệu dễ nhận biết nhất là không có Giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn. Việc không đảm bảo yếu tố về mặt pháp lý đã dẫn đến các hệ quả
nhất định. Về vấn đề nhân thân, khoản 1 Điều 14 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định
“Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
giữa vợ và chồng”. Nếu như trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ
chồng nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì
quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Như vậy, Điều 14 Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ dành cho trường hợp đầu tiên
là các bên đủ điều kiện kết hôn nhưng chung sống với nhau như vợ chồng mà không
thực hiện việc đăng ký kết hôn. Khi đó, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng không
phát sinh. Nếu các bên muốn xác lập quan hệ vợ chồng thì giá trị pháp lý tính từ
thời điểm đăng ký kết hôn. Pháp luật không công nhận mối quan hệ về hôn nhân khi
nam, nữ chỉ có hành vi thực tế là chung sống với nhau dù có đáp ứng điều kiện kết
hôn hay các vấn đề khác như có con chung hay tài sản chung … Đây là nguyên tắc
chung thống nhất để đảm bảo tránh các tranh chấp phức tạp trên thực tế, tạo hành
lang pháp lý vững chắc quản lý quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng, hỗ trợ các chế
định pháp lý khác như đại diện, thừa kế, …
Đối với trường hợp thứ hai là khi nam và nữ không đủ điều kiện kết hôn
nhưng vẫn chung sống với nhau như vợ chồng, chẳng hạn như nam, nữ chưa đủ tuổi