Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Giá trị nội dung và nghệ thuật lời ca trong hát đám cưới của người Sán Chỉ (khảo sát trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên)
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 9
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGÔ HƢƠNG LIÊN
I CA
TRONG
(KHẢO SÁT TRÊN ĐỊA BÀN T )
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên, 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGÔ HƢƠNG LIÊN
TRONG
(KHẢO SÁT TRÊN ĐỊA BÀN T )
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Phƣơng Thái
Thái Nguyên, 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chuyên môn
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn
Ngô Hương Liên
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm – Đại
học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong
suốt quá trình học tập.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các cơ quan trên địa bàn tỉ :
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉ , phòng Văn hóa Thông tin
huyệ ; phòng Văn hóa Thông tin huyệ , thư viện tỉ
Nguyên.
Xin cả , Âu Văn Sinh... cùng
gia đình đã nhiệt tình cung cấp thông tin và nhiều tư liệu quý báu.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn: TS. . Cô luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt
thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn
Ngô Hương Liên
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn...........................................................................................................i
Lời cam đoan......................................................................................................ii
Mục lục..............................................................................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 7
.................................................................................... 7
................................................................................... 7
6. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 7
7. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 8
.......................................................................... 8
ận văn...................................................................................... 9
.......................................................................................................10
...............10
1.1. - Nguồn gốc, tên gọi tộc người .. 10
.......................................... 14
..................................................................14
.................................................................................15
...............................................................................18
............................................................................. 20
.........................................................................20
...............................................22
1.4. – .......................................... 25
1.4.1. Hát giao duyên – cầu nối của tình yêu con người với ......25
...........................................27
........................................................................................................... 29
Chƣ ...30
................................................................................. 30
iv
............................................................................ 33
.....................................................................................33
2.2.2. Hát ứng đáp trong đám cưới ..............................................................54
........................................................................................................... 60
CA TRONG ĐÁM
CƢỚI ......................................................................61
.................................................................................... 61
............................................................................................61
...............................................................................................64
............................................................................. 68
......................................................................68
........................................................................70
....................................................................71
.............................................................................. 74
..........................................................................................74
................................................................................................81
.................. 83
3.4.1. Thời gian nghệ thuật ..........................................................................83
3.4.2. Không gian nghệ thuật .......................................................................87
: .......................................................................................................... 91
......................................................................................................92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................95
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về phƣơng diện khoa học
.
,
trưng. trung tâm
chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng Đông bắc nói chung,
cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa trung du miền núi với vùng đồng
bằng Bắc Bộ, tỉnh bao gồm 8 dân tộc anh em quần tụ như Dao, Tày, Nùng...
trong đó có Sán Chỉ.
.
Trong .
n
.
Hiện nay, Sình ca trong đám cưới đã được một số nhà nghiên cứu dịch và sưu
tầm. Tuy nhiên, số lượng còn hạn chế và chưa có cái nhìn toàn diện về phương thức
nội dung, nghệ thuật gian .
Từ phương diện trên, chúng tôi đã tiến hành sưu tầm các bài hát
đám cưới và , . Từ đó
khái quát được bản sắc dân tộc và phong tục tập quán của đồng bào.
2
1.2. Về phƣơng diện thực tiễn
thống của dân tộc thiểu số. Với nét đẹp về văn hóa tinh thần, hát Sình ca
trong nghi lễ đám cưới đã tạo nên sức sống trường tồn, được lưu từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
. Đây cũng là điều kiện để gìn giữ,
bảo tồn những giá trị truyền thống của Sán Chỉ đang đứng trước nguy cơ tiếng
hát bị mai một, thất lạc do phương thức lưu truyền.
Qua quá trình thu thập thông tin và điền dã chúng tôi thấy việc lựa chọn
tìm hiểu đề tài “
)” sẽ
hơn qua việc tiếp cận loại hình văn nghệ dân gian - của dân tộc thiểu số
trên ,
–
.
2. Lịch sử vấn đề
Với quá trình lao động và sản xuất lâu đời,
1945 với chính
sách bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc, mới được quan tâm nghiên
cứu, bảo tồn, gìn giữ nay có công trình nghiên cứu Dân
tộc Sán Chay giới thiệu về đời sống tinh thần của
người Cao Lan và Sán Ch qua kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian. Đó là hát
Sình ca (theo tiếng Cao Lan) hoặc Xắng cọ (theo tiếng Sán Chỉ), tác giả nhấn
mạnh: “Ở người S ng cộ hoặc Sắng cộ khá
phổ biến, hầu như xưa kia làng nào cũng hát. Hội hát dân ca Kiên Lao diễn ra
vào ngày 18 tháng 2 âm lịch tại đình làng gọi là đình Cống. Trước một, hai
3
ngày vào hội đã có nhiều khách cũng là người Sán Chí từ Lạng Sơn đến, họ
cùng nhau bàn bạc công việc chuẩn bị cho ngày hội” [8, tr.394]
Dân tộc Cao Lan tập trung phân bố ở các tỉnh như Tuyên Quang, Quảng
Ninh... trong đó hát Sình ca ở Bắc Giang đem đến một nét đặc trưng riêng qua
cuốn Dân ca Cao Lan ở Bắc Giang do Ngô Văn Trụ (chủ biên), nguồn gốc của
tiếng hát Sình ca “có từ rất lâu và nó trở thành một sinh hoạt văn hóa truyền
thống của dân tộc Cao Lan” [36, 109]. Ở đây tác giả đã sử dụng tên gọi là Sịnh
ca và phân chia các bài hát thành các loại khác nhau: “Sịnh ca Thsăn lèn (hát
năm mới), (hát đối đáp hay giao duyên), Sịnh ca tò tàn (hát
đố), Sịnh ca ý (hát chơi, hát trêu ghẹo nhau)” [46, tr.116 – 117]
Đây là lối hát đơn điệu với ca từ phong phú, đa dạng, phản ánh mọi mặt
của đời sống nhiều nhất là giao duyên và tình yêu đôi lứa. Hát Sình ca không đi
cùng âm nhạc và vũ đạo. Âm điệu Sình ca nhấn nhá nên dễ đưa vào câu hát
những sự việc hàng ngày nên được người Sán Chỉ - Cao Lan sử dụng như một
phương tiện giao tiếp và trở thành nét văn hóa đặc sắc, giàu giá trị của hai tộc
người này.
Bài viết Giữ khúc dân ca cho người Sán Chỉ của tác giả Lê Quân trên
báo Công an nhân dân điện tử đăng ngày 08/01/2009 có trích dẫn lời anh Lâm
Văn Cựu (43 tuổi) người Sán Chỉ ở xã Nhược Bản, Bình Lộc, Lạng Sơn: “Dân
Sán Chỉ ở đây tầm tuổi tôi ai mà chả biết hát Sình ca, đã hát nhiều lắm rồi, ở
ngoài rừng, trên nương, đám cưới, đám hỏi, rồi giao lưu thi thố khắp nơi rồi”
[52]. Cũng giống đồng bào Sán Chỉ ở Bình Liêu – Quảng Ninh, ở Lạng Sơn,
người Sán Chỉ hát Sình ca như một hình thức sinh hoạt văn nghệ bình dân
thường ngày và dành cho mọi đối tượng.
Bài Dân ca Cao Lan đăng ngày 7/12/2007 trên báo điện tử Vĩnh Phúc
viết: “Dân ca Cao Lan “có hai loại hình chính: “Sình Ca” (loại hát ban đêm,
tổ chức trong nhà) và “Vèo Ca” (loại hát ban ngày, tổ chức ngoài trời). Dù là
Sình Ca hay Vèo Ca thì chủ yếu vẫn mang tình cảm trữ tình, bộc lộ rõ tâm hồn
4
yêu cuộc sống và khát khao hạnh phúc của lứa đôi tuổi trẻ. Có những trường
hợp một bài, hát ban đêm là Sình Ca, hát ban ngày là Vèo Ca” [54]. Tư liệu
của bài viết được khai thác tại nhóm người Cao Lan sinh tụ ở vùng Lập Thạch
- Vĩnh Phúc.
Bài viết Xã Kim Phú - Tuyên Quang bảo tồn và quảng bá những câu hát
Sình Ca đăng trên báo Tuyên Quang ngày 9/3/2011 có đề cập tới việc thành lập
đội văn nghệ thôn ở xã Kim Phú - Yên Sơn - Tuyên Quang. Theo các thành
viên trong đội văn nghệ cho cho biết: “hát Sình ca là loại hình xướng ca truyền
thống của dân tộc Cao Lan và được lưu truyền từ đời này qua đời khác theo
phương thức truyền miệng. Hát Sình ca bao giờ cũng đi kèm với những điệu
múa uyển chuyển, sinh động mô phỏng lại cảnh sinh hoạt đời thường của người
dân như: đi tra lúa (trong điệu múa khai đèn), đi xúc tép ” [53]. Sự xuất hiện
của vũ điệu trong hát Sình ca ở Tuyên Quang theo tài liệu trên là một điều đặc
biệt bởi hầu hết chương trình nghiên cứu đều đưa ra những kết luận hát Sình ca
là lối hát không nhạc đệm và không vũ đạo. Vũ điệu trong hát Sình ca ở Tuyên
Quang có thể chỉ là một sự cải biến lối hát cổ của đội văn nghệ để phù hợp và
thu hút người xem hơn.
Có thể kết luận, hầu hết trên các địa bàn khác nhau, Sình ca là hình thức
sinh hoạt văn nghệ phổ thông và phù hợp với nhiều đối tượng. Đây là những lời
hát dành phần nhiều những người trẻ tuổi đặc biệt là thanh niên nam nữ và đều
là hình thức hát không nhạc đệm và không nhạc cụ. Có thể khái quát trong
nhận định của Đặng Chí Thông về hát Sình ca: “Giai điệu của nó dễ hát, tiết
tấu cũng không cần đến sự chính xác cao, người ta cũng chỉ cần dựa vào
những câu thơ sẵn có để hát. Sự nhấn nhá theo giai điệu không phức tạp,
không có sự đột biến mà thường lặp lại sau bốn câu. Yếu tố dân dã, dễ hát ấy
đáp ứng tính phổ thông của loại hình” [37, tr.37].
Một điều dễ nhận thấy nữa là ở tất cả các địa bàn cư trú khác nhau nhưng
người Sán Chỉ đều tổ chức hát Sình ca trong đám cưới và coi nó là một bộ phận
5
không thể thiếu trong ngày vui này. Đối với người Sán Chỉ, lễ cưới không bao
giờ và không được phép vắng những câu hát Sình ca.
Để làm cơ sở dẫn nhập vào giải quyết đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu, phân
tích một số nghiên cứu có nhắc đến hát Sình ca trong môi trường là lễ cưới. Có
thể nói, những công trình này rất ít và mới ở cấp độ khái quát.
Trong cuốn Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam do tác giả Khổng Diễn chủ
biên đã nhắc đến ở trên, tác giả đã nêu ra một vài bằng chứng để minh định vị
trí cho hát Sình ca trong cưới hỏi. Từ việc chọn quan lang, chọn người đi đón
dâu phải là người “biết đối đáp và hát Sình ca giỏi” [8, tr.251]. Trong các bước
tiến hành những khúc hát Sình ca sẽ là quan trọng không thể thiếu để
nhà trai rước cô dâu về: “Hát xin vào cổng, hát xin lên nhà, hát xin dâu trong
đêm nhà trai ở lại nhà gái… ” [5, tr.253].
trong bài viết Tìm hiểu tục cưới xin của người Cao Lan xã Kim
Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, tác giả Đặng Chí Thông khẳng định:
“Không giống như đám cưới của các dân tộc khác chỉ nặng về nghi lễ đám
cưới, đám cưới của người Cao Lan còn là dịp để các sinh hoạt văn hóa dân
gian diễn ra sinh động trong đó hát Sình ca là nét văn hóa đặc sắc nhất”,
“Trong đêm ngủ lại nhà cô dâu, những người có tuổi sẽ hát trước và suốt đêm đó
nam nữ thanh niên hát không nghỉ” [37].
Tục cưới hỏi mới chỉ được nhắc đến một cách khái lược trong phần Tập
quán cưới xin, sinh đẻ và nuôi con ,
nhằm làm rõ vấn đề “tổ chức xã hội” của người Sán Chay. Thông qua việc mô
tả quá trình diễn ra các nghi thức, các tác giả đã chứng minh sự tương đồng
trong tục cưới của người Cao Lan và Sán Chỉ như công tác chuẩn bị trước hôn
nhân, các bước tiến hành, vai trò của quan lang và những nhân vật trong đoàn
đưa đón dâu, những kiêng kỵ, những hành động mang ý nghĩa tâm linh như thủ
tục “thu hồn”, tục “làm lễ tơ hồng”, “uống rượu tương tư”…, đồng thời cũng
khẳng định những nét dị biệt là rất nhỏ. Sự tương đồng ở mức độ khái quát là
điều không thể phủ nhận. Song nếu
6
.
Nhằm mang đến cái nhìn khái quát về đám cưới của người Sán Chỉ ở
Bắc Giang, tác giả bài viết Tục cưới của người Sán Chỉ ở Sơn Động, Bắc
Giang đã mô tả đám cưới của ngưới Sán Chỉ ở vùng này bao gồm ba bước: Lễ
xin lá số - đặt trầu (Pá lăng lậu), lễ đặt gánh (hối măn) và lễ cưới [56, tr.52].
Tác giả bài viết đã chỉ ra điểm nổi bật trong đám cưới của tộc người này là vai
trò của ông cậu trong việc tìm hiểu và giao tiếp với gia đình cô dâu cho đến
trước lễ cưới.
Một số bài viết khác cũng đề cập đến tộc người Sán Chỉ như:
- Chu Quang Trứ, Trở lại vấn đề nguồn gốc lịch sử người Cao Lan, Tạp
chí Dân tộc, số 45, 1964 [47].
- Nguyễn Nam Tiến, Về mối quan hệ tộc người giữa hai nhóm Cao Lan
và Sán Chỉ, Thông báo Dân tộc học, số 1/1972, tr. 59 – 75 [41].
- Nguyễn Nam Tiến, Về nguồn gốc và quá trình di cư của người Cao
Lan và Sán Chỉ, Thông báo Dân tộc học, số1/1973, tr. 41-57 [42]
- Nguyễn Nam Tiến, Lại bàn về nguồn gốc và quá trình di cư của người
Cao Lan và Sán Chỉ ,trong cuốn Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc
thiểu số ở Miền Bắc Việt Nam [39].
Trên cơ sở khoa học, các công trình nghiên cứu trên chưa
trong
.
Dựa vào thực tiễn,
việc tìm hiểu hát Sình
ca trong đám cưới ở tỉnh Thái Nguyên là hết
sức cần thiết nhằm