Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đưa đất nước phát triển nhanh bằng cách Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
MIỄN PHÍ
Số trang
67
Kích thước
390.2 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1698

Đưa đất nước phát triển nhanh bằng cách Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

Lời nói đầu

Trong tiến trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, với những xu thế vận động

và bối cảnh khách quan của nền kinh tế thế giới và khu vực, với những tác động

của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội… để tránh khỏi bị tụt hậu Việt Nam đang

đứng trước thời cơ mới và thách thức mới. Đối với Việt Nam, trong điều kiện

chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường

lại có điểm xuất phát thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, để đưa đất nước

phát triển nhanh Đảng ta đã khẳng định ” Phát huy cao độ nội lực, đồng thời

tranh thủ nguồn lực bên ngoài” Quá trình tham gia vào hội nhập kinh tế thế giới

và khu vực là tất yếu.

Nhật Bản là một trong những nước có tầm ảnh hưởng rất lớn trong nền kinh tế

thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhật Bản là một cường quốc kinh tế đã

trải qua nhiều năm phát triển thần kỳ vào trước thập niên 90của thế kỷ XX khiến

cho cả thế giới khâm phục. Nhiều nước trong khu vực Châu á đã phấn đấu noi

theo mô hình phát triển của Nhật Bản, trong đó một số nước và lãnh thổ Đông á

đã nhanh chóng trở thành con rồng, con hổ kinh tế, giải quyết thành công nhiều

vấn đề đời sống kinh tế – xã hội, chỉ trong vòng 2 – 3 thập niên.Vì vậy, việc xem

xét, nghiên cứu, tìm hiểu học hỏi những chính sách, biện pháp, giải pháp, chiến

lược mà chính phủ Nhật Bản đã sử dụng để đưa nền kinh tế phát triển mạnh mẽ

như vậy đối với Việt Nam là rất cần thiết nhằm tạo ra sự tăng trưởng cao và bền

vững cho việc phát triển kinh tế - xã hội.

2

Sau quá trình thực tập tại Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản em đã hoàn thành

chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Cải cách kinh tế của Nhật Bản và mối

quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản”.

Vì thời gian ngắn và kiến thức bản thân còn hạn chế nên nội dung chuyên đề thực

tập này không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy cô chỉ bảo, góp ý

để chuyên đề thực tập của em được hoàn chỉnh hơn.

Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu

I. Mục tiêu nghiên cứu đề tài

Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống những vấn đề về cải cách kinh tế của Nhật

Bản, hiệu quả của cuộc các cuộc cải cách đó và sự ảnh hưởng của nó tới Việt

Nam.

Đánh giá bước đầu hiệu quả của các cuộc cải cách đó đối với việc thúc đẩy phát

triển kinh tế - xã hội của Nhật Bản, Việt Nam và một số tồn tại.

Trên cơ sở đó để có những giải pháp và tìm ra những ảnh hưởng của các cuộc cải

cách đó đối với nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong các

lĩnh vực kinh tế – xã hội.

II. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện được mục tiêu trên cần phải có phương pháp, cách tiếp cận khoa

học và phù hợp. Cơ sở lý luận thực hiện đề tài chủ yếu dựa vào các lý thuyết liên

quan đến lợi thế so sánh, lý thuyết về phát triển thương mại quốc tế trong điều

kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày nay.

III. Kết cấu của Đề tài

Lời nói đầu đề cập đến sự cần thiết, mục tiêu, nội dung, ý nghĩa, đề tài.

3

Chương I, Đề tài tập trung nghiên cứu về Nhật Bản, quá trình cải cách của Nhật

Bản và tầm ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế Nhật Bản.

Chương II, Đề tài tập trung phân tích, đánh giá các cuộc cải cách tài chính của

Nhật Bản và hiệu quả của nó.

Chương III, Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản. Một số giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả của các cuộc cải cách đó và triển vọng phát triển trong tương lai.

Kết luận, Trên cơ sở kết quả nghiên cứu phần kết luận khẳng định những kết quả

đạt được và một số kiến nghị nhằm nâng cao mối quan hệ kinh tế Nhật Bản -

Việt Nam trong tương lai.

Chương I: Quá trình cải cách kinh tế của Nhật Bản

I. Xu hướng của nền kinh tế thế giới

Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu hướng quan

trọng trong hoạt động kinh tế quốc tế. Các nước đang phát triển (trong đó có Việt

Nam) cùng với việc tranh thủ thu hút các nguồn vốn để phát triển cũng khuyến

khích, đẩy mạnh việc quan hệ hợp tác với các nước phát triển trên thế giới nhằm

học hỏi kinh nghiệm cũng như mở rộng thị trường, tận dụng các nguồn tài

nguyên, lao động, tăng nguồn thu lợi nhuận cũng như tăng cường ảnh hưởng với

các nước khác và. Chính vì những lẽ đó mà đã có rất nhiều quốc gia, tổ chức

quốc tế, các cơ quan nghiên cứu, các nhà khoa học đã đưa ra, tổng kết những

kinh nghiệm, những vấn đề lý luận, thực tiễn và dự báo về xu hướng phát triển

của nền kinh tế thế giới trong đó có Nhật Bản và Việt Nam.

II. nền kinh tế nhật bản từ cuối những năm 1980 đến nay

4

Nhật Bản, một nước nghèo tài nguyên, không thể đánh mất bất kỳ một cơ

hội thương mại quốc tế nào nếu đó là cơ hội để phát triển kinh tế và duy trì một

mức sống cao. Các chính sách liên quan tới thương mại và đầu tư do vậy đã

chiếm một vị trí nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế. Sau thời kỳ tăng trưởng

kinh tế cao, ở Nhật Bản đã nảy sinh hàng loạt vấn đề đòi hỏi nhà nước phải điều

chỉnh chính sách và tiến hành cải cách trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội, chính

trị, văn hóa…

Phạm vi của đề tài được xác định là những cải cách được tiến hành ở Nhật

Bản từ cuối những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay. Những cải cách này đã, đang

và sẽ được tiến hành với nội dung và hình thức rất phong phú và đa dạng, chưa

biết được thời gian kết thúc.

- Những yếu tố (bên trong và bên ngoài) thúc đẩy Nhật Bản cải cách. Đó là sự đổ

vỡ của kinh tế bong bóng, đồng Yên lên giá, hệ thống ngân hàng tài chính lạc

hậu, sự già hoá dân số, bộ máy nhà nước yếu kém, tình hình chính trị mất ổn định

và tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp tác động mạnh tới kinh tế, xã hội

Nhật Bản.

- Những nội dung cơ bản của cải cách kinh tế ở Nhật Bản, trong đó bao gồm các

chính sách và giải pháp tình thế lẫn các chương trình cải cách kinh tế một cách

toàn diện. Đồng thời, đánh gia một số thành công cũng như hạn chế của cải cách

kinh tế ở Nhật Bản và cuối cùng vạch ra những vấn đề cần được tiếp tục cải cách.

Trong những năm 80 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng nợ đã làm cho nhiều

nước đang phát triền lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Để thoát khỏi

khủng hoảng, suy thoái các nước đang phát triển đã phải cải cách kinh tế theo

5

hướng chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, mở cửa nền kinh tế, thực hiện

chiến lược CNH, hướng về xuất khẩu. Và Nhật Bản cũng không là ngoại lệ, từ

đầu thập niên 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa thoát hẳn ra khỏi cơn

suy thoái kéo dài, cho dù cũng đã có sự tăng trưởng trở lại của nền kinh tế với chỉ

số dự đoán khoảng 2,4% năm 2003 (tạp chí “Times” số tháng 10/2003).

Sự phát triển không ổn định đi liền với khủng hoảng suy thoái kéo dài là đặc

trưng cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản trong khoảng hơn thập niên vừa qua. khởi

đầu của sự phất triển đó được đánh dấu bởi sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng

Nhật Bản vào đầu thập niên 1990. Tăng trưởng kinh tế (GDP) của Nhật Bản

trong những năm 1990 đã suy giảm liên tục với động thái tăng trưởng rất chậm

chạp và thất thường. Cụ thể như sau:

- Từ 1990 đến 1996: với động thái tăng trưởng kinh tế: 0,5%; 0,6%; 2,8%;

và 3,2%.

- Từ 1997 đến 1999: tiến dần đến tình trạng trầm trọng của khủng hoảng.

Khủng hoảng kinh tế Nhật Bản được gắn liền với ảnh hưởng tiêu cực của khủng

hoảng tài chính – tiền tệ Đông á (1997 – 1998). Lần đầu tiên kể từ sau Chiến

tranh Thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng âm liên tục trong 2 năm

liền(1997: - 0,7% và 1998: -1,1%).Năm 1999: kinh tế Nhật Bản phục hồi trở lại

nhưng tăng trưởng còn mong manh: 0,7%.

- Năm 2000: kinh tế Nhật Bản tăng trưởng khả quan: 2,4%.

- Năm 2001: suy giảm kinh tế trở lại với chỉ số tăng trưởng: -0,4%.

- Năm 2002 đến nay: đang phục hồi yếu 1,6%.

6

Về đại thể, các chỉ số tăng trưởng GDP hàng năm trên đây đã phản ánh khái quát

nhất về mặt định lượng của cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật Bản kéo dài suốt thập

niên 1990 đến nay. Nếu so với cuộc khuủng hoảng kinh tế 1973 – 1975 của thế

giới Tư Bản Chủ Nghĩa, trong đó có Nhật Bản thì mức độ khủng hoảng lần này

còn tồi tệ hơn nhiều (cuộc khủng hoảng 1973 – 1975, năm 1973: tăng trưởng

GDP của Nhật Bản là 8%, đến năm 1974 tuy có bị giảm đột ngột đến mức –

1,2%, song đến năm 1975, lại khôi phục trở lại ngay với tăng trưởng 3%, tiếp đó

năm 1976 là 4%, từ đó bình quân hàng năm cho đến cuối thập niên 1980 đều đạt

tăng trưởng khoảng 5%).

Đó là biểu hiện tổng quát nhất của khủng hoảng kinh tế Nhật Bản qua động thái

suy giảm của tăng trưởng GDP hàng năm.

Iii. cải cách trong lĩnh vực kinh tế của nhật bản

Các chính sách và biện pháp cải cách kinh tế ở Nhật Bản kể từ đầu thập kỷ 1990

đến nay có thể được chia thành hai cum chính sách và biện pháp chủ yếu, đó là

các chính sách và biện pháp mang tính chất tình thế, và các chương trình cải cách

kinh tế một cách cơ bản và toàn diện.

1. Các chính sách và giải pháp tình thế

Trước tình trạng suy thoái kinh tế nghiêm trọng và kéo dài, đồng yên bất ổn định,

sự yếu kém của hệ thống ngân hàng – tài chính, và các vấn đề kinh tế – xã hội

khác, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện khá nhiều chính sách và giải pháp tạm

thời để khôi phục và lấy lại sức sống cho nền kinh tế. Các chính sách và biện

pháp loại này thực ra đã được áp dụng nhiều lần trong các thập kỷ trước đây khi

nền kinh tế Nhật Bản có biểu hiện suy thoái theo chu kỳ. Nội dung chủ yếu của

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!