Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Dự báo sự phát triển của công nghệ sinh học trong những thập niên đầu thế kỷ XXI
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
Dự báo sự phát triển của công
nghệ sinh học trong những thập
niên đầu thế kỷ XXI
2
Lời nói đầu
Từ thập niên 90 của thế kỷ trước, nắm bắt được xu thế phát triển của thế giới, Đảng
và Nhà nước ta đã xác định công nghệ sinh học (CNSH) là một trong 4 lĩnh vực công
nghệ cao cần được ưu tiên phát triển. Song song với việc đào tạo nguồn nhân lực, hình
thành đội ngũ cán bộ CNSH gồm hơn 2000 người, việc xây dựng các phòng thí
nghiệm cũng được quan tâm đầu tư. Tuy nhiên, nhìn toàn cục thì CNSH hiện nay của
Việt Nam vẫn đang ở tình trạng lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới. Để khắc phục tình trạng này, Chỉ thị 50-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng ban hành ngày 04/3/2005 đã xác định các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và giải pháp
mạnh, nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong nhận thức và hành động, đưa CNSH
nước ta phát triển theo xu hướng dự báo của thế giới: “Thế kỷ XXI-Thế kỷ của CNSH”.
Tiếp đó, ngày 22/7/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 188/2005/QĐ-TTg
về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị số 50-
CT/TW ngày 04 tháng 3 năm 2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Theo đó mục
tiêu của Chương trình đến năm 2010 là sẽ tạo ra, tiếp nhận và làm chủ được các CNSH
chủ yếu; triển khai ứng dụng mạnh mẽ, rộng khắp và có hiệu quả các công nghệ này
vào lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản, y-tế, công nghiệp chế biến, bảo vệ môi trường và
an ninh, quốc phòng; Đến năm 2020 sẽ cung cấp đủ nguồn nhân lực khoa học và công
nghệ (KH&CN) có trình độ cao và chất lượng tốt, đủ năng lực sáng tạo và làm chủ các
công nghệ trong lĩnh vực CNSH phục vụ đắc lực cho việc phát triển kinh tế, xã hội và
bảo vệ môi trường; Xây dựng được một số trung tâm nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ tiên tiến và hiện đại về CNSH đạt tiêu chuẩn quốc tế; Hình thành và
phát triển ngành CNSH có đủ năng lực sản xuất các sản phẩm chủ lực, thiết yếu của
nền kinh tế quốc dân.
Để thực hiện tốt Chương trình, Chính phủ đã giao cho Bộ KH&CN làm cơ quan đầu
mối của Chính phủ, có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức thực hiện Chương
trình; thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện các nội dung
của Chương trình hành động của Chính phủ tại các Bộ, ngành và địa phương có liên
quan. Ngày 30/9/2005, Bộ KH&CN đã phối hợp với Ban Khoa giáo Trung ương tổ
chức Hội nghị quán triệt Chỉ thị số 50-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và
triển khai Chương trình hành động của Chính phủ.
Nhằm cung cấp thêm thông tin và tầm nhìn tổng quát về những xu hướng phát triển
chủ yếu của CNSH trong những năm sắp tới, Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia
biên soạn và giới thiệu Tổng quan “Dự báo sự phát triển của công nghệ sinh học trong
những thập niên đầu thế kỷ XXI”.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gi
3
Phần I
Thế kỷ XXI: Kỷ nguyên của sinh học và xã hội sinh học
1.1. Sự hình thành và phát triển của xã hội thông tin
Theo nhiều chuyên gia, thông qua những thuật ngữ và khái niệm khác nhau, thì sự
phát triển xã hội ở các nước công nghiệp tiên tiến đã dẫn tới hình thái XHTT, trong đó
động lực chủ chốt là sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông (CNTTTT), việc sử dụng gia tăng nhanh chóng của các thiết bị mới và sự tăng trưởng của lĩnh
vực dịch vụ đặc thù. Theo Castells1
, điểm bước ngoặt công nghệ quan trọng tạo nên xu
hướng này là sự phát minh ra các vi chip vào đầu thập kỷ 70. Kể từ đó, cốt lõi của
XHTT đã được hình thành, bao gồm các công nghệ xử lý thông tin và truyền thông.
Thông tin và tri thức đã trở thành nhân tố then chốt, có vai trò vừa là các nhân tố sản
xuất, vừa là các sản phẩm. Do vậy, không chỉ vai trò của thông tin thuần tuý, mà là
khả năng tự tích luỹ, năng suất và sức sáng tạo của nó mới là những phương diện công
nghệ trọng yếu của XHTT.
Động lực của XHTT chủ yếu dựa vào công nghệ với vai trò là một yếu tố vật chất.
Ví dụ, sự phát triển này đã nhấn mạnh đến năng lực gia tăng của các máy tính và sự
kết nối mạng lưới ngày càng hiệu quả hơn. Mannermaa2
, một chuyên gia CNSH Phần
Lan, lập luận rằng hình thái XHTT bao gồm cả hình thái Xã hội Nông nghiệp lẫn hình
thái Xã hội Công nghiệp. Tuy nhiên, XHTT phức tạp hơn, do nó có thêm nhiều đặc
điểm mới nổi bật, chẳng hạn như sự gia tăng của các hình thức và toàn bộ khối lượng
thông tin và sự gia tăng mức độ liên kết lẫn nhau về xã hội/kỹ thuật. Theo lập luận
này, có thể nhận định rằng XHTT sẽ phức tạp hơn các xã hội trước đây do có những
đặc điểm mới đang nổi lên.
Sự phát triển công nghệ đã làm thay đổi quan niệm xã hội, đề cao vai trò hàng đầu
của việc ứng dụng tri thức/thông tin và truyền thông. ở những quốc gia đi tiên phong
trong XHTT, chẳng hạn như Mỹ và các nước Bắc Âu, việc ứng dụng tri thức và thông
tin đã gia tăng tầm quan trọng, trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển công nghệ.
Điều này phản ánh các nhu cầu đang thay đổi của người tiêu dùng. Ví dụ, việc chọn
mua điện thoại di động ngày càng phụ thuộc vào những dịch vụ mà nó cung cấp, chứ
không thuần tuý là phần cứng. Ngoài ra, những quan niệm về tối đa hoá mức độ cơ
động/bất động và tính kết nối vạn năng (Universal) cũng sẽ có những tác động quan
trọng tới tương lai của CNTT-TT.
1.2. Buổi bình minh của Xã hội Sinh học (Biosociety)
Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển của CNSH đã tạo xúc tác cho những nỗ lực kinh
tế và khoa học to lớn. Do vậy, có cơ sở để nhận định rằng CNSH sẽ là phương diện
công nghệ nền tảng của làn sóng xã hội mới. Làn sóng xã hội này dựa vào những tác
động xã hội của các khoa học sinh học, bao gồm CNSH, kỹ thuật di truyền, các khoa
học về sự sống, sản xuất lương thực/thực phẩm, sản xuất công nghiệp, theo dõi môi
trường. Mannermaa mệnh danh cho làn sóng xã hội mới đang nổi lên này là “Xã hội
1 M. Castells, The Rise of the Network Society, 1996
2 Mannermaa, Biosociety and Human Being- Life after Information Society, 2003
4
Sinh học” (XHSH) và khẳng định rằng hình thái xã hội mới này còn phức tạp hơn so
với các hình thái xã hội trước đây.
Xã hội Nông nghiệp đặt nền tảng trên công nghệ nông nghiệp. Công nghệ này có
mục đích thoả mãn các nhu cầu cơ bản (ăn, mặc, nhà ở…). Làn sóng tiếp theo, Xã hội
Công nghiệp, đã phát triển và sử dụng công nghệ sản xuất hàng loạt. Điều này cho
thấy rằng ở hình thái xã hội này, không chỉ các nhu cầu cơ bản được thoả mãn, mà cả
các nhu cầu tinh thần. Xã hội Thông tin được mệnh danh như vậy là do thiên hướng
công nghệ chuyển sang CNTT-TT. ở XHTT, sự chú trọng đã đặt vào các nhu cầu tinh
thần, bao gồm truyền thông, văn hoá, học tập và giải trí.
Tiến tới XHSH, sự chú trọng chủ yếu cũng đặt vào các nhu cầu phi vật thể, nhưng
cơ sở công nghệ và năng lực công nghệ sẽ thay đổi. Thao tác và bắt chước các quá
trình sinh học sẽ là những nền tảng của XHSH. Theo Schwartz3
, triết lý cơ bản của
CNSH như được trích dẫn ở dưới đây, chính là nhân tố đã dẫn tới sự thay đổi:
“CNSH là gì? Đó là công nghệ do con người sáng tạo ra nhằm bắt chước và nâng
cao các quá trình sinh học mà thiên nhiên đã hoàn thiện qua hàng triệu năm tiến hoá.
Thiên nhiên đã tiến hoá những hệ thống cực kỳ phức tạp và hoàn mỹ mà cho đến nay
vẫn vượt xa mọi thứ mà con người đã tạo ra và chúng ta mới chỉ bắt đầu học cách làm
theo chúng càng nhanh càng tốt”.
Cùng với CNTT hiện nay, sự phát triển này sẽ đem lại những cơ hội to lớn cho
nghiên cứu y học, cũng như khả năng thao tác những yếu tố cốt lõi của bản thân sự
sống. Fukuyama và Stock lập luận rằng sẽ có nhiều cơ hội mở ra thông qua nghiên cứu
cơ bản do những động lực chung của các nguồn vốn đầu tư cho nghiên cứu CNSH.
Quả thực, hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) trong lĩnh vực CNSH đang được
thực hiện rất mạnh mẽ ở các xã hội phát triển.
1.3. Sau XHSH sẽ là Xã hội Tổng hợp (Fusion Society)?
Trong bối cảnh của lý thuyết làn sóng xã hội, có thể vạch ra được những triển vọng
xã hội dài hạn, nhưng để mô tả đặc trưng của các làn sóng xã hội một cách rõ ràng và
dứt khoát là một việc rất khó, thậm chí là không thể. Tuy nhiên, ta vẫn có khả năng
vạch ra một cái gì đó quan trọng, có vẻ có lý trong những làn sóng xã hội đang tiến
đến. Đoạn trích dẫn sau đây trong quá trình phỏng vấn các chuyên gia minh hoạ cho
điều đó: “Tôi cho rằng XHSH là một phương án của XHTT. Nó đang làm say đắm
lòng người theo nghĩa nó sẽ động chạm đến tất cả mọi người trong số chúng ta. Nó
cũng giống như quá trình biến đổi từ máy bay cánh quạt lên máy bay phản lực. Cũng
vẫn cùng một công nghệ đó, nhưng nó trở nên hiệu quả hơn. Công nghệ nano (CNNN)
cũng sẽ được kết hợp vào XHSH”. Đoạn trích dẫn ở trên chỉ ra phương hướng của
tương lai công nghệ, đó là sự kết hợp các công nghệ khác nhau. Fumio Kodama4
đã
lập luận rằng các doanh nghiệp có thể ứng dụng 2 cách tiếp cận R&D công nghệ: Cách
tiếp cận đột phá và cách tiếp cận kết hợp công nghệ: cách tiếp cận thứ nhất dựa trên ý
tưởng là những thế hệ công nghệ mới sẽ thay thế những thế hệ cũ. Tuy nhiên, cách tiếp
3 P. Schwartz, The long boom. A vision for the coming age, 1999
4 F.Kodama, Tech Fusion, Harvard Business Review, 7-8/1992
5
cận thứ hai dựa vào những tổ hợp mới đối với những công nghệ hiện có. Theo
Kodama, sự kết hợp công nghệ là cách lai ghép mang tính bổ sung và phi tuyến đối
với các công nghệ tách biệt trước đây.
Phản ánh sự phát triển của các công nghệ, CNSH và CNNN cũng gia tăng tầm quan
trọng cùng với CNTT-TT. Ngoài ra, còn bao gồm cả sự kết hợp sáng tạo khác nhau
giữa các công nghệ hiện có. Chỉ cần nêu ra một ví dụ, Tạp chí Technology Review của
Viện Công nghệ Machasmiset - MIT (Mỹ) số tháng 2/2003 đã nêu ra 10 công nghệ
đang nổi sẽ làm thay đổi thế giới, trong đó có một số là sự kết hợp của các công nghệ,
chẳng hạn như mạng cảm biến vô tuyến, công nghệ tạo mô không cần tiêm, pin mặt
trời nano, cơ điện tử, tính toán mạng, chụp ảnh phân tử, in lito nano, bảo hiểm phần
mềm, glycomics và mật mã lượng tử. Cách tiếp cận của MIT Technology Review đã
gợi ý về tương lai của công nghệ. Dựa trên cơ sở như vậy, có thể không quá hàm hồ
nếu đưa ra giả định rằng làn sóng xã hội tiếp tới hiện đã ở trong giai đoạn “thai
nghén”. Sau khi nghiên cứu sâu về quan điểm kết hợp công nghệ, Mannermaa đưa ra
giả định về hình thái xã hội sẽ nổi lên sau XHSH, đó là “Xã hội Tổng hợp”. ở hình thái
xã hội này, các công nghệ đặc thù hội tụ lại với nhau thành những công nghệ tổng thể,
mang tính hệ thống, trong đó có sự hoà trộn và kết hợp các loại hình và ranh giới của
các công nghệ tách biệt trước đây. Xã hội Tổng hợp sẽ có những đặc trưng chính đã
từng gắn liền với những làn sóng công nghệ trước đó như XHSH, XHTT và Xã hội
Công nghiệp, nhưng đặc trưng rõ rệt nhất của nó là sự kết hợp các mối tương tác phức
tạp giữa công nghệ, môi trường, kinh tế và xã hội với nhau. Tuy nhiên, còn phải cần
đến rất nhiều công trình nghiên cứu công phu nữa mới có thể vạch chi tiết hơn về nội
dung của làn sóng xã hội này (hình vẽ).
6
Toàn cầu
hóa
GDP
Tính phức
tạp
Tốc độ thay
®æi
Kỷ nguyên
nông nghiệp
6000-7000
năm
Kỷ nguyên
Công nghiệp
250 năm
Kỷ nguyên
Thông tin 50
năm
Kỷ nguyên
Sinh học 25
năm
Kỷ nguyên Tổng
hợp
Hình vẽ: Sự tiến triển của các hình thái xã hội
(chú thích: BCE - Trước công nguyên)