Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Dòng họ người HMông trắng tỉnh Sơn La
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HỒ LY GIANG
DÒNG HỌ NGƢỜI HMÔNG TRẮNG
TỈNH SƠN LA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
Chuyên ngành: Nhân học văn hóa
Mã số: 62 31 65 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Phạm Quang Hoan
2. PGS.TS. Nguyễn Văn Minh
HÀ NỘI 2013
5
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Nghiên cứu sinh
Hồ Ly Giang
6
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án Tiến sĩ với đề tài “ Dòng họ ngƣời Hmông
Trắng tỉnh Sơn La”, tôi xin chân thành cảm ơn:
Khoa Dân tộc học thuộc Học viện Khoa học xã hội Việt Nam đã
giúp đỡ tôi hoàn thành chƣơng trình học tập, nghiên cứu và bảo vệ luận án.
Lãnh đạo và ngƣời dân địa phƣơng xã Phỏng Lái, huyện Thuận
Châu, tỉnh Sơn La đã nhiệt tình cộng tác trong suốt quá trình điền dã, khảo
sát tại địa bàn nghiên cứu.
Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã khích lệ, động viên, tạo điều kiện
tốt nhất cho tôi khi thực hiện luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phạm
Quang Hoan và PGS.TS.Nguyễn Văn Minh, những ngƣời thầy đã trực tiếp
hƣớng dẫn và đã cho tôi những góp ý vô cùng quý báu.
Xin chân thành cảm ơn
7
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU …………………………………………………………… 1
1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu …………………………………………........ 3
3. Đối tƣợng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu……………………….. 3
4. Đóng góp của luận án…………………………………………....... 3
5. Nguồn tƣ liệu của luận án…………………………………………. 4
6. Bố cục của luận án……………………………………………….... 4
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT, PHƢƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu……………………………… 5
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả ngoài nước……………………….. 5
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả trong nƣớc……………………….. 10
1.2. Cở sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu………………… 13
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản……………………………………… 13
1.2.2. Cơ sở lý thuyết……………………………………………….... 14
1.2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………… 16
1.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu……………………………... 17
1.3.1. Vài nét về ngƣời Hmông ở Việt Nam………………………… 17
1.3.1.1. Lịch sử di cư, địa vực cư trú……………………………........ 17
1.3.1.2. Tộc danh và một số đặc điểm về văn hoá, dân số…………... 20
1.3.1.3. Về đời sống………………………………………………….. 24
1.3.2. Vài nét về ngƣời Hmông ở xã Phóng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La 25
1.3.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên………………………….. 25
1.3.2.2. Đặc điểm xã hội …………………………….......................... 26
1.3.2.3. Đặc điểm kinh tế…………………………….......................... 27
1.3.2.4. Đặc điểm văn hoá tinh thần ……………………………........ 30
Tiểu kết chƣơng 1……………………………................................... 40
CHƢƠNG 2. CÁC ĐẶC TRƢNG VÀ QUAN HỆ DÒNG HỌ
CỦA NGƢỜI HMÔNG...................................................................... 42
2.1. Nguồn gốc về dòng họ của ngƣời Hmông……………………. 42
2.1.1. Quan niệm về dòng họ…………………………….................... 42
2.1.2. Dấu hiệu để nhận biết dòng họ ……………………………...... 43
2.1.2.1. Kiêng cữ và truyền thuyết về dòng họ………………………. 44
2.1.2.2. Tập tục trong tang ma ……………………………………….. 46
2.1.2.3. Tập tục trong các lễ cúng ma của gia đình ………………….. 48
2.1.3. Truyền thuyết về việc hình thành các dòng họ………………... 49
2.2. Tổ chức dòng họngƣời Hmông Trắng ởxã Phỏng Lái, Thuận Châu, Sơn La 52
2.2.1. Ngƣời đứng đầu dòng họ……………………………………… 52
2.2.2. Những ngƣời có uy tín khác trong dòng họ …………………... 54
8
2.2.3. Quan hệ của ngƣời đứng đầu và những ngƣời có uy tín trong dòng họ 58
2.3. Các quan hệ dòng họ …………………………………………... 61
2.3.1. Quan hệ dòng họ trong cƣ trú …………………………………. 61
2.3.2. Quan hệ dòng họ trong đời sống kinh tế …………………….... 63
2.3.3. Quan hệ dòng họ trong đời sống xã hội……………………….. 71
2.3.4. Quan hệ dòng họ trong đời sống tâm linh…………………….. 77
2.3.4.1. Lễ cúng chung của các dòng họ người Hmông ở xã Phỏng Lái 78
2.3.4.2. Một số nghi lễ, sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng khác của gia
đình thành viên trong dòng họ ……………………………………….. 82
Tiểu kết chƣơng 2…………………………………………………….. 94
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 96
3.1. Vai trò của dòng họ trong đời sống của ngƣời Hmông Trắng…... 96
3.1.1. Vai trò của dòng họ trong cố kết cộng đồng và tộc ngƣời…….. 96
3.1.2. Vai trò của dòng họ trong phát triển kinh tế…………………... 100
3.1.3. Vai trò của dòng họ trong quản lý xã hội……………………… 101
3.1.4. Vai trò của dòng họ trong giữ gìn bản sắc văn hoá……………. 103
3.2. Một số vấn đề đang đặt ra …………………………………….. 106
3.2.1. Một số quan niệm khác nhau về ngƣời Hmông……………….. 106
3.2.2. Một số yếu tố tác động đến dòn họ của ngƣời Hmông Trắng…. 106
3.2.2.1.Về đặc điểm di cư và cư trú ………………………………….. 106
3.2.2.2. Tác động của chính sách dân tộc và phát triển kinh tế - xã
hội của Đảng và Nhà nước ta………………………………………... 108
3.2.2.3. Tác động của sự chuyển đổi tín ngưỡng truyền thống………. 112
3.2.3. Một số vấn đề thách thức đối với phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh chính trị ảnh hƣởng đến dòng họ của ngƣời Hmông hiện nay….. 114
3.2.3.1. Thách thức về đảm bảo kinh tế, an ninh lương thực………… 114
3.2.3.2. Thách thức về vấn đề di cư và địa bàn cư trú……………….. 115
3.2.3.3. Thách thức về xã hội ………………………………………... 115
3.2.3.4. Thách thức về chuyển đổi tín ngưỡng tôn giáo……………… 117
3.2.3.5. Thách thức về vấn đề an ninh chính trị……………………… 117
3.2.4. Một số dự báo về tình hình ngƣời Hmông ở vùng Tây Bắc và
Sơn La liên quan đến dòng họ………………………………………... 118
3.3. Bảo tồn và phát huy các giá trị của dòng họ trong bối cảnh hiện nay 121
3.3.1. Phát huy những yếu tố tích cực của dòng họ trong xây dựng nông thôn mới 121
3.3.1.1. Quản lý xã hội, ổn định dân cư và bảo vệ tài nguyên……….. 121
3.3.1.2. Phát triển kinh tế hộ gia đình………………………………... 127
3.3.1.3. Giữ gìn bản sắc văn hoá tộc người …………………………. 130
3.3.2. Khắc phục những mặt hạn chế của dòng họ………………... 133
Tiểu kết chƣơng 3 …………………………………………………... 136
KẾT LUẬN ………………………………………………………….. 138
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………… 143
PHỤ LỤC ẢNH……………………………………………………… 152
PHỤ LỤC GIA PHẢ.………………………………………………… 164
PHỤ LỤC THỐNG KÊ………………………………………………. 169
9
MỤC LỤC BẢNG
Bảng 1: Dân số các tỉnh có nhiều ngƣời Hmông cƣ trú
.................................222
Bảng 2: Dân số Hmông tỉnh Sơn La
...............................................................233
Bảng 3: Tình hình dân số và dòng họ của ngƣời Hmông ở xã Phỏng Lái ....266
Bảng 4: Đánh giá về vai trò của ông trƣởng họ ngƣời Hmông
......................554
Bảng 5: Ai là ngƣời quyết định công việc chung của bản ..............................60
Bảng 6: Đánh giá về vai trò của hƣơng ƣớc trong đời sống hiện nay ...........132
PHỤ LỤC
Phụ lục ảnh ...............................................................................................152
Phụ lục gia phả ........................................................................................ 164
Phụ lục thống kê ................................. .....................................................167
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và Nhà ở năm 2009, dân tộc Hmông ở
nƣớc ta có 1.095.000 ngƣời, đứng hàng thứ bảy sau các dân tộc Việt, Tày, Thái,
Khơ-me, Mƣờng và Nùng. Ngƣời Hmông sinh sống chủ yếu ở những vùng núi có
độ cao trung bình từ 800 - 1.700 m trở lên, địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn
nhiều nơi thuộc vùng cao núi đá. Mặc dù môi trƣờng cƣ trú không thuận lợi,
nhƣng tộc ngƣời này luôn tạo dựng đƣợc cách ứng xử khá phù hợp với sự đa
dạng của điều kiện cảnh quan vùng cao.
Dân tộc Hmông ở Việt Nam có các nhóm nhƣ: Hmông Hoa (Hmông
Lềnh), Hmông Đen (Hmông Đu), Hmông Trắng (Hmông Đơ) và Hmông Xanh
(Hmông Súa). Sự phân biệt giữa các nhóm chủ yếu dựa vào sự khác nhau của
trang phục và ngôn ngữ. Về cơ bản, những phong tục tập quán của các nhóm
Hmông đều có nhiều nét tƣơng đồng, nhất là trong thiết chế dòng họ và nghi lễ
trong chu kỳ đời ngƣời. Khác với đa số tộc ngƣời thiểu số khác, ngƣời Hmông
có mối quan hệ cố kết tộc ngƣời hết sức bền chặt, kể cả khi họ cƣ trú tại một địa
phƣơng hay cách biệt ở những nƣớc, các châu lục khác nhau. Biểu hiện đặc
trƣng nhất của mối quan hệ này là sự cố kết dòng họ “xuyên quốc gia”. Dòng họ
của ngƣời Hmông có vị trí đặc biệt quan trọng, đó là một trong những yếu tố cốt
lõi cấu thành xã hội Hmông và là nền tảng cho sự tồn tại của thiết chế xã hội
truyền thống, đồng thời chi phối nhiều khía cạnh trong đời sống hàng ngày của
cộng đồng. Dòng họ Hmông cũng là môi trƣờng giữ gìn và thể hiện bản sắc tộc
ngƣời rất đậm nét. Thông qua sự giống nhau về tên họ cùng những quy ƣớc riêng
của từng dòng họ, dù ở địa phƣơng nào của Việt Nam cũng nhƣ ở các nƣớc khác
trên thế giới, ngƣời Hmông đều cho là thuộc cùng một họ, đều sinh ra từ một ông
2
tổ chung, đều là anh em với nhau và vì vậy phải có trách nhiệm giúp đỡ và bảo
vệ lẫn nhau. Đặc điểm cố kết dòng họ mang tính “xuyên quốc gia” của ngƣời
Hmông có những mặt tích cực, nhƣng cũng có những ảnh hƣởng không mong
muốn tới sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá và đảm bảo ổn định chính trị xã
hội, an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc, miền núi, đặc biệt là vùng biên giới.
Trong xã hội truyền thống cũng nhƣ hiện nay, dòng họ của ngƣời Hmông
có vai trò chi phối liên quan đến toàn bộ tổ chức kinh tế - xã hội của tộc ngƣời
này, đƣợc thể hiện qua các kiêng kỵ trong nghi lễ gia đình, đặc biệt là qua các
hình thức thờ cúng (ma nhà, ma buồng, ma bếp…), và những nghi lễ chung của
dòng họ nhƣ lễ ma bò (nhu đa), lễ cúng dòng họ (shầu su, txi su, cơz đa), lễ đuổi
tà ma (lử su, lử tau),... Thông qua các hoạt động này, nhất là nghi lễ dòng họ và
các hình thức thờ cúng của các gia đình thành viên là chất keo bền vững tạo nên
sự cố kết chặt chẽ, bền lâu trong quan hệ dòng họ, thể hiện vai trò và vị trí của
dòng họ không chỉ đối với các gia đình thành viên mà còn đối với cả cộng đồng.
Cho đến nay, dòng họ của ngƣời Hmông đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu đề
cập đến ở phạm vi rộng. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ ở từng nhóm Hmông tại một
địa bàn cụ thể còn ít đƣợc đề cập, nhất là nhóm Hmông Trắng ở tỉnh Sơn La.
Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài “Dòng họ của người Hmông Trắng tỉnh Sơn
La” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Nhân học văn hóa. Sở dĩ nhƣ vậy là do, chúng
tôi nhận thấy dòng họ đóng vai trò cốt lõi trong xã hội ngƣời Hmông. Nghiên cứu
dòng họ của ngƣời Hmông Trắng sẽ giúp chúng ta hiểu biết đầy đủ, sâu sắc hơn về
tộc ngƣời này, giúp các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý tham khảo để
tổ chức ổn định dân cƣ, phát triển kinh tế và quản lý xã hội, góp phần bảo tồn và
phát huy các giá trị của dòng họ trong xây dựng nông thôn mới hiện nay, đồng thời
hạn chế các thế lực thù địch trong và ngoài nƣớc lợi dụng dòng họ của ngƣời
Hmông vào mục đích gây mất ổn định chính trị xã hội, thậm chí chống phá đất
3
nƣớc ta, đặc biệt tại các địa bàn vùng biên giới Việt - Lào, nơi đã bùng phát và hiện
vẫn đang tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn .
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ các đặc điểm dòng họ của ngƣời Hmông Trắng ở Sơn La trƣớc
đây và hiện nay.
- Làm rõ các mối quan hệ và vai trò của dòng họ trong đời sống cộng đồng
ngƣời Hmông Trắng ở Sơn La.
- Đề xuất các giá trị tích cực của dòng họ cho việc bảo tồn và phát huy
nhằm phục vụ công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay của Đảng và Nhà
nƣớc ta trong cộng đồng ngƣời Hmông Trắng ở Sơn La.
3. Đối tƣợng, phạm vi và địa bàn nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu chính là dòng họ của ngƣời Hmông Trắng tại các
điểm nghiên cứu thuộc huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Trong đó đi sâu nghiên
cứu về các đặc trƣng và vai trò của dòng họ trong đời sống tộc ngƣời của nhóm
Hmông Trắng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các vấn đề đến dòng họ của ngƣời Hmông Trắng
trong sự so sánh với dòng họ của tộc ngƣời Hmông ở tỉnh Sơn La, Hòa Bình,
Điện Biên, Lai Châu và một số địa phƣơng khác.
3.3. Địa bàn nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu chính là xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn
La, nơi có đông ngƣời Hmông Trắng sinh sống tập trung nhất của tỉnh.
4. Đóng góp của luận án
Luận án là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về dòng
họ của ngƣời Hmông Trắng ở tỉnh Sơn La trong truyền thống và những biến đổi
4
hiện nay. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho việc so sánh sự tƣơng đồng và khác
biệt giữa các dòng họ của ngƣời Hmông Trắng ở Sơn La với các nhóm Hmông ở
những địa điểm khác.
Qua nghiên cứu về dòng họ của ngƣời Hmông Trắng, luận án cung cấp
những tƣ liệu khoa học, góp phần làm rõ các đặc trƣng cơ bản nhất của thiết chế
dòng họ và các mối quan hệ, đồng thời phân tích những vai trò của dòng họ
trong đời sống tộc ngƣời Hmông.
Kết quả nghiên cứu góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy
các giá trị tốt đẹp của dòng họ ngƣời Hmông đến với phát triển kinh tế - xã hội,
quản lý tốt các vấn đề xã hội và góp phần xây dựng nông thôn mới hiện nay ở
vùng đồng bào Hmông.
5. Nguồn tƣ liệu của luận án
Nguồn tƣ liệu của luận án chủ yếu do tác giả thu thập tại địa bàn nghiên
cứu từ năm 1998 đến nay. Bên cạnh đó, cũng kế thừa nguồn tài liệu đã đƣợc
công bố của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc, các đề tài nghiên cứu khoa
học, về dòng họ; các số liệu, báo cáo của Trung ƣơng và địa phƣơng về ngƣời
Hmông liên quan đến nội dung đề tài.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận án
gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, phƣơng pháp
và địa bàn nghiên cứu
Chƣơng 2: Các đặc trƣng và quan hệ dòng họ của ngƣời Hmông
Chƣơng 3: Kết quả và bàn luận
5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT,
PHƢƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả ngoài nước
Claude Lévi-Strauss, nhà Dân tộc học Pháp nổi tiếng với công trình Cấu
trúc cơ bản của quan hệ thân tộc [80], đã đƣa ra mô hình một trật tự xã hội có
cấu trúc chặt chẽ. Khác với Durkheim cho rằng, xã hội đƣợc tổ chức nhƣ một cơ
thể gồm những phần phụ thuộc lẫn nhau và cần thiết cho sự sống còn của “toàn
thể”, Lévi-Strauss khẳng định: Giữa sức sống và xã hội còn có một yếu tố cơ bản
chính là cái biểu hiện của toàn thể, khiến cho việc nghiên cứu xã hội cũng là
phân tích yếu tố tâm linh và xã hội của khoa tâm lý học về ý thức cộng đồng có
khả năng soi sáng quan hệ nhân quả của các hiện tƣợng tập thể. Lévi-Strauss tin
rằng, quá trình mang tính lôgic cơ bản cấu trúc tất cả mọi suy nghĩ của con ngƣời
hoạt động trong các bối cảnh văn hóa khác nhau, cho nên các hiện tƣợng văn hóa
không giống hệt nhau, nhƣng chúng là sản phẩm của một khuôn mẫu cơ bản
chung của tƣ duy và ông tập trung nghiên cứu quanh việc tìm ra khuôn mẫu đó.
Với phƣơng pháp cấu trúc, Lévi-Strauss đã đem lại một sinh khí mới cho việc
nghiên cứu quan hệ thân tộc. Ông là ngƣời đầu tiên nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của liên minh bên trong cấu trúc thân tộc, và nêu bật lên sự cần thiết phải
trao đổi có đi có lại trong cấm kỵ loạn luân. Theo nhãn quan đó, ông đi đến việc
nêu lên ý tƣởng rằng, mọi xã hội con ngƣời đều xây dựng trên một đơn vị tối thiểu
về thân tộc là hạt nhân của thân tộc. Luận điểm tổng quát này đƣợc gọi là học
thuyết về liên minh.
Theo một số nhà Nhân học phƣơng Tây, các dòng họ đƣợc xác định bằng
6
những mối quan hệ với tổ tiên, vì vậy chúng có một bề dày thời gian. Nguyên tắc
của quan hệ dòng họ bao gồm sự truyền lại qua mối liên hệ giữa cha mẹ với con
cái và liên kết những ngƣời này lại với nhau thành một nhóm xã hội. Trong một
số xã hội, tƣ cách thành viên trong một dòng họ sẽ quyết định cách thức ngƣời
đó đƣợc huy động để phục vụ cho hành động xã hội nhƣ thế nào [11, tr. 67].
Những quan hệ bắt nguồn từ hành vi tính giao đƣợc gọi là hôn nhân và những
mối quan hệ dựa trên sinh đẻ đƣợc gọi là quan hệ dòng họ. Quan hệ dòng họ là
một phạm trù có tính chất chọn lọc, phản ánh quan điểm của nền văn hóa nào đó
về vai trò của con ngƣời. Xã hội mẫu hệ đề cao vai trò của phụ nữ thông qua sinh
đẻ và xây dựng hệ thống thân tộc, dòng họ trên cơ sở này, không chú ý nhiều đến
vai trò của nam giới trong sinh sản. Ngƣợc lại, xã hội phụ hệ đề cao vai trò của
ngƣời cha và xây dựng hệ thống thân tộc, dòng họ thông qua những ngƣời nam
giới, mà coi nhẹ vai trò mang thai của ngƣời phụ nữ. Các nhà nhân học cho rằng,
có thể có hai cách chính mà ngƣời ta sử dụng để thiết lập dòng họ: dòng họ song
hệ (bilateral hay cognatic descent), là nhóm các thành viên có liên quan với nhau
bằng một quan hệ nhƣ nhau thông qua bên cha và bên mẹ, và dòng họ đơn hệ gồm
những ngƣời có liên hệ với nhau chỉ thông qua bên cha hoặc bên mẹ.
Dòng họ đơn hệ đƣợc coi là phổ biến nhất trên thế giới hiện nay, bao gồm
hai loại cơ bản là phụ hệ và mẫu hệ [11, tr. 71]. Cũng theo các nhà Nhân học,
thân tộc hay dòng họ đƣợc xác định nhƣ các nhóm xã hội, thiết lập thế tƣơng
quan giữa các cá nhân và nhóm xã hội trong không gian và thời gian nhất định,
các hệ thống thân tộc, dòng họ giúp duy trì trật tự xã hội mà không có sự can
thiệp của chính quyền. Hệ thống này cũng cung cấp những định hƣớng xã hội đa
dạng, theo đó có thể phát triển nhiều mối quan hệ khác nhau nhƣ liên minh, liên
kết, hỗ trợ, thậm chí có thể chống đối và thù nghịch.
Một số nhà nhân học đã tiến hành nghiên cứu dòng họ và hôn nhân nhƣ
7
Evans [68] và Leach [76]. Đến giữa thế kỷ 20, những nhà Nhân học coi nghiên
cứu dòng họ nhƣ một lĩnh vực phân tích riêng liên quan đến các khía cạnh kinh
tế - xã hội khác. Họ phần lớn tập trung vào nghiên cứu xã hội dựa trên mối quan
hệ, vai trò của dòng họ và các tổ chức của những xã hội không có chữ viết.
Những nghiên cứu này, cùng với sự phát triển tƣ tƣởng về thuyết cấu trúc chức
năng của Firth [69], Malinowski [81] và Radcliff - Brown [88]. Vào nửa cuối thế
kỷ thứ 20, trong quam điểm của Levi - Strauss về thuyết chức năng vẫn coi dòng
họ nhƣ một tổ chức xã hội và là một lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt. Một nghiên
cứu quan trọng của ông “The Elementary Structure of Kinship [80], đã minh họa
đƣợc sự quan trọng của các mối quan hệ và sự liên kết trong hôn nhân. Tuy
nhiên, những quan điểm của Levi - Strauss về trao đổi và đặc quyền giữa nhóm
đàn ông với nhóm đàn bà đã đƣợc các nhà nhân học sau này tiếp tục nghiên cứu
và phê bình. Những nghiên cứu về tổ chức xã hội, tƣ tƣởng đối ngẫu và những
phân loại nhị nguyên của các loại dòng họ khác nhau theo thuyết cấu trúc chức
năng đã đƣợc tiến hành ở Indonesia, New Guinea, Andes và Amazon de Boon
[59], Maybury - Lewis và Almagor [82] và Turner [96] thực hiện. Điểm yếu của
phái theo thuyết cấu trúc chức năng là trình bày một bức tranh tĩnh của xã hội đã
đƣợc Bourdieu sửa lại và trình bày về dòng họ bao gồm cả hôn nhân giữa anh em
con chú, con bác ở Nam Phi, nghiên cứu hành vi và sự chuyển đổi hƣớng nghiên
cứu của ông về dòng họ đã thu hút sự quan tâm trong lĩnh vực dòng họ [54, tr.
68].
Một số nhà nghiên cứu ngƣời Pháp đã có những công trình nghiên cứu nổi
tiếng về đời sống văn hoá tộc ngƣời Hmông, nhƣ: F.M. Savina [33] với công
trình “Lịch sử người Mèo” đã trình bày tƣơng đối kỹ về lịch sử và quá trình hình
thành cộng đồng ngƣời Hmông; Guy Morechand [13] trong công trình “Thuật sa
man của người Hmông Trắng ở Đông Dương” đã nêu lên những đặc điểm và
8
các hình thức chủ yếu về thuật saman của ngƣời Hmông nói chung; ngƣời
Hmông ở Lào đã đƣợc Yang Dao cung cấp những thông tin cơ bản về gia đình,
dòng họ, các tổ chức xã hội, chính trị khác của tộc ngƣời này, đồng thời nghiên
cứu cả sự thay đổi cuộc sống của ngƣời Hmông trên các lĩnh vực xã hội, kinh tế,
chính trị do ảnh hƣởng của các nƣớc phƣơng Tây [97 tr. 54]. Tuy nhiên, vấn đề
về dòng họ của ngƣời Hmông chƣa hoặc rất ít đƣợc đề cập trong những cuốn
sách này.
Những nghiên cứu trực tiếp về dòng họ nói chung và dòng họ của ngƣời
Hmông nói riêng có thể nhắc đến một số công trình tiêu biểu nhƣ:
- Maine, McLennan và Morgan là những nhà nghiên cứu đầu tiên về dòng
họ. Trong cuốn sách của Morgan “System of Consanguinity and Affinity of the
Human Family” [84] đã chỉ ra sự khác nhau giữa thuật ngữ dòng họ, mô tả và
phân loại dòng họ. Sự khác nhau này đƣợc các nhà Dân tộc học và Nhân học
khác chấp nhận, và trở thành một nguyên tắc cơ bản cho các nghiên cứu nhân
học và dân tộc học về dòng họ đƣợc thể hiện trong các nghiên cứu sau này của
Leach [76], Levis - Strauss [79], Radcliffe - Brown [87], Schneider and Homans
[91] và Service [90]. Vì sự khác nhau căn bản giữa các mối quan hệ cùng dòng
máu và tự nhận, nên các nhà nhân học đã quan tâm đến hai khía cạnh cốt lõi
khác của dòng họ, đó là mối quan hệ giữa những ngƣời cùng dòng máu và mối
quan hệ tự nhận; cuốn sách này còn bao gồm cả những điều tra về các quy định
của dòng họ và nơi cƣ trú.
- Một trong những thay đổi cơ bản trong nghiên cứu về dòng họ của ngƣời
Hmông xuất hiện từ những năm 1970, khi Ruey Yih-Fu đề cập và phân tích
những mối quan hệ thân tộc đơn giản của ngƣời Mèo ở phía Nam Trung Quốc.
Sau khi điều tra nghiên cứu cấu trúc xã hội của ngƣời Mèo, ông đã đƣa ra lập
luận rằng: Ngƣời Mèo có thể đƣợc mô tả bởi dòng họ song phƣơng và cũng có
9
thể bởi quá trình cƣ trú của cƣ dân bản địa mới, và cấu trúc xã hội phụ hệ vẫn tồn
tại do ảnh hƣởng từ ngƣời Hán, do có mối quan hệ và quá trình thâm nhập của
ngƣời Hán [89: tr.44]. Tuy nhiên, đây chỉ là sự giả định từ các các mối quan hệ
dòng họ của ngƣời Mèo. Gần đây, Nicholas Tap đã thuật lại những vấn đề liên
quan đến dòng họ của ngƣời Hmông ở Trung Quốc trong cuốn sách “The Hmong
of China”. Cuốn sách này đã mô tả mối quan hệ giữa ngƣời Hmông và những cƣ
dân xóm giềng của họ, sự bố trí của dòng họ ngƣời Hmông và dân tộc khác sống
trong cùng một làng Wutong, tỉnh Sichuan [95].
- Trong một công trình khác, nghiên cứu các mối quan hệ của ngƣời
Hmông dựa vào phả hệ và mạng lƣới dòng họ. Để hiểu đƣợc sự quan trọng của
tập quán xã hội của dòng họ và cấu trúc dòng họ, một nhà dân tộc học ngƣời
Hmông, Gary Yia Lee đã viết: “Khi hai ngƣời Hmông gặp nhau lần đầu tiên,
quan tâm đầu tiên thƣờng là xem có cùng họ và cùng lý của dòng họ mình
không. Nếu không cùng họ, thì lại hỏi xem vợ của ngƣời kia có cùng họ với
mình không. Nếu ngƣời vợ không cùng họ, thì mối quan hệ của họ vẫn đƣợc
thiết lập vì cùng là ngƣời Hmông. Nhƣng nếu hai ngƣời gặp nhau lần đầu tiên
mà là cùng họ thì câu hỏi tiếp theo xem họ thuộc ngành Hmông nào? Số lƣợng
bát lễ vật cúng tổ tiên nhƣ thế nào? Mộ ngƣời chết ra sao? Nếu giống nhau thì họ
cùng chung một ông tổ [77, tr.31]”.
Ngƣời Hmông theo chế độ phụ hệ, có nghĩa là con theo dòng cha. Hệ thống
gia đình ngƣời Hmông là gia đình mở rộng. Các con trai cùng với vợ sống chung
với bố mẹ mình. Còn con gái sau khi kết hôn phải ở bên nhà chồng và mang họ
nhà chồng. Một nhà bao gồm nhiều gia đình cùng sống chung. Trong truyền
thống, đối với ngƣời Hmông Trắng ở Thái Lan thì khi ngƣời con trai thứ hai lấy
vợ về sẽ ở với bố mẹ, còn vợ chồng ngƣời anh cả lúc này lại chuyển ra ngoài
sống trong ngôi nhà ngay cạnh nhà bố mẹ mình, tuần tự nhƣ vậy cho đến ngƣời