Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại)
PREMIUM
Số trang
196
Kích thước
2.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1520

Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt

(đối chiếu với tiếng Hán hiện đại)

Mã số: 62.22.01.01

Chuyên ngành: Lí luận ngôn ngữ

Nghiên cứu sinh: Đào Mạnh Toàn

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS. Hồ Lê; TS. Trần Hoàng

Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh

2

DẪN NHẬP

1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Đồng âm (ĐÂ), đa nghĩa (ĐN) là hiện tượng (HT) có tính phổ quát trong

ngôn ngữ, nó bao gồm: ĐÂ và ĐN trong từ, ĐÂ và ĐN trong ngữ, ĐÂ và ĐN

trong câu. Trong đó, ĐÂ và ĐN trong từ là HT phổ biến nhất. Với tư cách là trung

tâm của HTĐÂ và HTĐN, từ ĐÂ và từ ĐN đã được bàn đến từ khá sớm. Tuy vậy,

cho tới nay, HT này vẫn còn nhiều bất đồng trong giới nghiên cứu . Những công

trình khảo sát về từ ĐÂ và từ ĐN cho thấy HT này đã được tiếp cận từ nhiều

hướng và mỗi hướng tiếp cận đều cho ta những phát hiện khác nhau. Ngay trong

một hướng tiếp cận thì những đặc điểm, những khía cạnh liên quan đến từ ĐÂ và

từ ĐN cũng được nhìn nhận không hoàn toàn giống nhau giữa các tác giả.

Trong giới Việt ngữ học, rất nhiều nhà nghiên cứu dựa trên các quan niệm, đường

hướng tiếp cận và mức độ khác nhau đã bàn về từ ĐÂ và từ ĐN. Một số tác giả đã cố gắng

xác định các tiêu chí nhận diệnĐÂtừ , từ ĐN, đề xuất các hướng miêu, tpảhân loạichúng.

Một số tác giả còn trình bày số liệu về các đơn vị (ĐV) ĐÂ và ĐN của họ. Tuy nhiên, chưa

có tác giả nào lấy từ ĐÂ, từ ĐN và từ vừa ĐÂ vừa ĐN làm đối tượng nghiên cứu chính của

mình, đặc biệt là họ chưa xác lập được sự đối lập cơ bản giữa từ ĐÂCG nghĩa (từ ĐÂCG)

với những từ ĐÂKG nghĩa (ĐÂngẫu nhiên). Đây là điểm mà luận án (LA)sẽ đề cập tới.

Vấn đề từ ĐN cũng còn nhiều chỗ phải đề cập tới như: xác định rõ các loại từ

ĐN, sự khác biệt giữa ĐN của một từ ĐN thông thường (giữa các nghĩa thường có

quan hệ phái sinh) với ĐN giữa các từ ĐÂ (không có quan hệ phái sinh, thường chỉ

có liên hệ về nghĩa). Từ những lí do này, chúng tôi xác định: đối tượng nghiên cứu

chính của LA là từ ĐÂ, từ ĐN; từ ĐÂ và ĐN trong TV. Đồng thời, sẽ đối chiếu nó

với vấn đề tương ứng trong tiếng Hán, một ngôn ngữ gần gũi về loại hình, nhằm tìm

ra những chỗ đồng nhất và khác biệt trong 2 ngôn ngữ. Đây là những lí do để chúng

chọn đề tài: Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại).

Như trên đã nói, LA không dừng lại ở sự nghiên cứu từ ĐÂ và từ ĐN nói

chung mà sẽ còn tập trung nghiên cứu từ ĐÂ và ĐN trong loại từ ĐÂCG và

ĐÂKG của TV. Nghiên cứu những đối tượng này, chúng ta một mặt sẽ làm rõ

3

được đặc điểm của từ ĐÂ, từ ĐN trong TV, mặt khác cũng làm rõ được vị trí, vai

trò và đặc điểm của từ ĐÂCG, từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và

ĐÂKG của TV. Từ đó làm rõ được những đồng nhất và khác biệt cũng như thấy

được những điểm giao thoa giữa hai HT này. LA cũng sẽ đối chiếu từ ĐÂ, từ ĐN,

từ ĐÂ và ĐN trong TV với từ ĐÂ, từ ĐN, từ ĐÂ và ĐN trong THHĐ để tìm ra

những điểm tương đồng và dị biệt trong hai ngôn ngữ.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

2.1 Ở Việt Nam, trước 1945, HTĐÂ, ĐN của TV đã gián tiếp được đề cập tới

trong một số tự vị do chính người Việt Nam biên soạn nhằm chuẩn hóa chính tả, chữ

viết (chữ quốc ngữ) nhưng chưa được soi rọi dưới góc độ lí luận. Chẳng hạn:

Năm 1895, có Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của [13 ]. Đây là cuốn

tự điển tường giải đầu tiên do người Việt biên soạn, là nguồn tài liệu quý về từ vựng

ngữ nghĩa TV những năm cuối thế kỉ XIX. Theo Lê Quang Thiêm [131, tr.50-52] thì:

“Trong một mức độ nhất định, tác giả Đại Nam quấc âm tự vị đã phân biệt được các

đề mục ĐÂ (Lê Quang Thiêm gọi là ĐÂ ngữ nghĩa). Khảo sát công trình này chúng

tôi còn nhận thấy: tác giả công trình còn bỏ sót nhiều ĐVĐÂ được tạo ra từ quá

trình phân li ngữ nghĩa như trường hợp của các ĐV bạc, đài…

Năm 1925, ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Mai [91] là người đầu tiên đề cập tới

HTĐÂ của TV với việc xuất bản ĐÂ tự vị. Công trình này thu thập “những chữ

khó viết hoặc những chữ ĐÂ cùng những chữ không nhằm ĐÂ mà phải viết dấu

hỏi hay dấu ngã, hoặc viết d hay g ở trước, c hay là t, có g hay là không có g ở

sau”. Khảo sát công trình này chúng tôi thấy: cấu tạo của ĐÂ tự vị gồm hai phần

(1) phần thu thập những “chữ” ĐÂ với SL lên tới 1779 ĐV, (2) Phần phụ thêm

thu thập những ĐV mà theo tác giả là sẽ có vấn đề về chính tả, những ĐV gốc

Ấn Âu không được thu thập và giải thích trong công trình này. Mặc dù tác giả

không hiển ngôn thế nào là ĐÂ song qua cách giải thích, sắp xếp của tác giả, ta

vẫn có thể thấy được. Đó là những ĐV có âm đọc giống nhau, có nghĩa khác

nhau và là những ĐV đơn tiết. Do hạn chế về thời đại nên ĐÂ tự vị của Nguyễn

Văn Mai mới chỉ thống kê được một SL rất nhỏ các ĐVĐÂ của TV, chưa xử lí

thỏa đáng các vấn đề của HTĐÂ trong TV, ngữ liệu mới chỉ dừng lại trong ngôn

4

ngữ sinh hoạt và trong văn ngôn tiếng Hán song bước đầu cũng đã gợi mở ra

một số vấn đề lí luận liên quan đến HTĐÂ của TV như: HTĐÂ giữa từ thuần

Việt với từ gốc Hán, giữa từ địa phương với từ toàn dân, vấn đề các ĐVĐÂ đơn

tiết.… Đó là những đóng góp không thể phủ nhận.

Năm 1931, có thêm sự góp mặt của Việt Nam tự điển [63]. So với Đại Nam

quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, Việt Nam tự điển đã chú trọng tới việc phân

biệt các ĐVĐÂ và các ĐVĐN, các ĐVĐÂ đều được phân tách và giải thích khá

rõ ràng. Nếu là ĐÂ Hán Việt thì còn dẫn cả chữ Hán để phân biệt. Nghĩa của các

ĐVĐN được phân biệt bằng kí số Ả Rập 1, 2, 3…, sau mỗi nghĩa đều có ví dụ

minh họa. Các ĐV ĐÂCG được xếp liền nhau và phân biệt với nhau bằng kí số

La Mã. Sau cùng là việc liệt kê những kết hợp có chứa mục từ đó. Chẳng hạn,

loạt ĐÂ có âm đọc là A được giải thích và sắp xếp như sau:

A. I. Đồ làm ruộng để cắt rạ ở ruộng chiêm, Nam-Kỳ gọi là cái trang, cái gạc:

Rèn một lưỡi a bằng ba lưỡi hái. Cắt rạ thì dùng bằng a, quét nhà thì dùng bằng chổi.

II. Cắt rạ bằng cái a: Ruộng đã gặt rồi cầm cái a đi a rạ. (…)

Việt Nam tự điển đã phân biệt rõ từ ĐÂ và hình vị ĐÂ. Tuy vậy, công trình

này vẫn còn bỏ sót những HTĐÂ khác mà thời ấy chắc chắn đã có như HTĐÂ

giữa những ĐV thuần Việt với những ĐV có nguồn gốc Ấn Âu…

Năm 1932, đáng chú ý là công trình Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh [01]. Đây

là một bộ TĐ có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam. Khảo sát vấn đề thu thập, giải thích,

phân loại các ĐVĐÂ và ĐN của Hán Việt từ điển chúng tôi thấy: Hán Việt từ điển

đã rất coi trọng vấn đề thu thập, giải thích và phân biệt, xử lí các ĐVĐÂ Hán và

Hán -Việt. Cách xử lí của ông như sau: đầu tiên, tác giả liệt kê tất cả các ĐVĐÂ

có trong mục từ đó, tiếp theo là việc liệt kê các kết hợp song tiết có chứa các

ĐVĐÂ đó cùng lời giải nghĩa về các ĐV này. Chẳng hạn: mục từ có âm đọc là

DAO được ông phân tách thành 07 mục từ nhỏ như sau:

Dao 摇 Lay động.

Dao 遥 Xa.

Dao 瑶 Một thứ ngọc tốt; quý báu; sáng sủa trong sạch.

Dao 谣 Câu hát không thành chương khúc; lời nói bằng không đặt ra.

5

Dao 愮 Lo buồn không tỏ cùng ai được.

Dao 徭 Xch. Dao dịch.

Dao 猺 Tên một dân-tộc ở miền núi thượng-du Bắc-kỳ và nhiều tỉnh phía tây-nam nước

tàu… (Hán Việt từ điển, tr. 197-198)

Năm 1939, có quan điểm của Trà Ngân Lê Ngọc Vượng [94]. HTĐÂ, ĐN

được tác giả bàn đến trong phần Những nguyên tắc chung (tr.29) và trong phần

Lược khảo về từ chương (tr.139). Theo tác giả thì: “ĐÂ nghĩa là đọc giống nhau.

Những TV – Nam cùng một âm như: nước chè – Nước Việt Nam – Nước cờ là

những tiếng Đ”. Và “Đ tất phải khác nghĩa”.

Năm 1940, có quan điểm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm

trong Việt Nam văn phạm [70]. Trong 18 chương của Việt Nam văn phạm thì

trong chương I Những điều khái lược (tr.18-19) và ở mục Lời tựa (tr. VIII, XI) là

những chỗ thể hiện rõ quan điểm của họ về từ ĐÂ và ĐN. Theo họ, “tiếng ĐÂ là

những tiếng viết giống nhau và đọc đồng một âm như nhau, nhưng cái nghĩa thì

khác mà không có liên – lạc gì với nhau cả. Ví như một tiếng nước là nói một xứ

có vua quan cai trị; một tiếng nước khác là nói chất lỏng ở sông ở biển. Một tiếng

năm là nói khoảng thời gian có mười – hai tháng; một tiếng năm khác là nói số

đếm sau số bốn” (Việt Nam văn phạm, tr.18).

Họ còn bàn về nguồn gốc của từ ĐÂ và nhược điểm của chữ Quốc ngữ:

“những tiếng ĐÂ ấy nhiều nhất là những tiếng gốc ở chữ nho mà ra” , họ nêu ví

dụ: Chữ minh là sáng thì viết chữ 明, chữ minh là tối thì viết chữ 冥, chữ minh

là mờ - mịt bát - ngát thì viết chữ 瞑, chữ minh là thề thì viết chữ 盟, chữ minh

là ghi, khắc thì viết chữ 铭, chữ minh là kêu (nói về chim) thì viết chữ 鸣”.Theo

họ thì “những chữ ấy viết bằng chữ nho là sáu chữ khác nhau, mà viết bằng quốc

- ngữ thì tiếng nào cũng như nhau cả. Song ta phải biết phân – biệt rằng đó là sáu

tiếng minh có sáu nghĩa riêng, chứ không phải là một tiếng minh mà có sáu

nghĩa...” (Việt Nam văn phạm; tr.19).

Trong Lời tựa, họ đưa ra nhận xét: “Chữ quốc – ngữ rất tiện – lợi là nhờ có

năm cái dấu giọng có thể phiên – dịch đúng hết thảy các âm. Chỉ hiềm vì các âm

6

tuy đúng, song khi gặp những tiếng đồng – âm thì viết giống nhau cả, thành ra

người nào không biết chữ nho, không làm thế nào phân - biệt những nghĩa khác

nhau trong những tiếng ấy...” (Việt Nam văn phạm; tr. III).

Có thể nói rằng, ngay từ rất sớm, HTĐÂ, ĐN trong TV đã được quan tâm

lưu ý. Ở giai đoạn này, do những hạn chế về thời đại nên chưa có những công

trình có tính lí luận, những công trình tập thể còn ít, chủ yếu là những công trình

dựa trên sự nỗ lực, cố gắng và kinh nghiệm của một số học giả nên thành tựu

nghiên cứu chưa nhiều, còn bỏ sót nhiều vấn đề liên quan đến HTĐÂ, ĐN trong

TV song bước đầu đã hé mở những vấn đề lí luận như: (1) tầm quan trọng và cái

khó của việc phân biệt những ĐVĐÂ thuần Việt và những ĐVĐÂ gốc Hán khi

không có chữ Hán chú kèm, (2) HTĐÂ giữa từ toàn dân với từ địa phương, (3)

việc chuẩn hóa chính tả, chữ viết, (4) sự xung đột giữa các loại văn tự đã và đang

được sử dụng (chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ) trong việc nhận diện các

ĐVĐÂ, ĐN của TV, (5) nhược điểm của chữ Quốc ngữ trong phản ánh các cách

phát âm vùng miền, (6) phân biệt những ĐVĐÂ với những ĐVĐN...

Từ sau 1945 đến 1975, HTĐÂ, ĐN tiếp tục nhận được sự quan tâm của các

nhà Việt ngữ học. Khảo sát những công trình này chúng tôi nhận thấy, trong khi

các học giả phía Nam vẫn tuân theo tôn chỉ chuẩn hóa chính tả, chữ viết và góp

phần truyền bá chữ Quốc ngữ là chính thì các học giả phía Bắc lại có xu thế

nghiêng nhiều về lí luận. Những quan điểm có tính lí luận ở giai đoạn này phần

lớn là về vấn đề từ điển học. Đáng chú ý là các công trình và quan điểm sau:

Năm 1947, ở Sài Gòn có Đồng âm vận tuyển của Trần Văn Khải [68]. Tiến

bộ hơn Nguyễn Văn Mai, Trần Văn Khải đã phát hiện và chỉ ra những nhược

điểm, những bất cập của chữ Quốc ngữ trong việc ghi âm, thể hiện giọng nói của

ba miền. Tác giả đã rất chú trọng đến thao tác so sánh đối chiếu và chọn mẫu

trong việc thu thập ngữ liệu: “trong quyển từ điển nầy, chúng tôi đối chiếu các tự

điển ở ba kỳ và chọn lấy cách viết của phần đông, hầu ngày sau điển - chế và

thống - nhứt văn – tự Việt – Nam” (Phàm lệ). Trần Văn Khải cũng đã có những

cải tiến, sáng tạo hơn về phương pháp biên soạn, điều này thể hiện ở phương

pháp sắp xếp các ĐVĐÂ của tác giả: thứ nhất, sau mỗi một đầu mục từ hay sau

7

mỗi một hình vị được giải thích đều có đánh số Ả-Rập chỉ rõ những từ hay hình

vị ĐÂ trong đầu mục ấy. Thứ hai, nghĩa của những hình vị ĐÂ được cho vào

ngoặc đơn để phân biệt với hình vị được giải thích. Sau cùng, là việc liệt kê

những kết hợp từ có chứa hình vị được giải thích. Ví dụ:

Ái 1 Ch.(Yêu) : ân ái ; ái chủng ; ái đái ; ái hộ ; ái hữu ; ái kỷ ; ái quốc ; ái sủng ;

ái tình ; bác ái ; bể ái ; luyến ái. 2 Ch. (giống như) : ái nam ; ái nữ. (lại đực ; lại cái). 3

Ch. (nấc cụt) : phát ái. 4 n. Êm ái ; ái đau ; ái ôi. (Đồng âm vận tuyển; tr 09).

Nghĩa của các từ hay các hình vị ĐÂ được thống kê và giải thích trong

Đồng âm vận tuyển khá rõ ràng và chính xác, nhất là các hình vị Hán Việt. Theo

thống kê của LA, ngoài 3647 hình vị và từ được đưa ra giải thích còn có phần

Câu rời là phần thu thập thêm những kết hợp từ có chứa những hình vị được giải

thích trong các mục từ trước đó và những chữ dễ gây nhầm lẫn với hình vị được

đưa ra giải thích. Phần này được tác giả cấu tạo thành những câu thơ lục bát

nhằm mục đích giúp người học dễ học, dễ nhớ, dễ phân biệt. Chẳng hạn, án và

áng được tác giả phân biệt như sau:

“Án binh, hương án, án quan

Áng công danh, với áng chiến trường có g” (Đồng âm vận tuyển; tr. 10).

Ngoài việc thu thập giải thích các hình vị Hán Việt, thuần Việt, Đồng âm

vận tuyển còn thu thập, giải thích cả những hình vị ĐÂ gốc Pháp.

Năm 1951, có Tự- điển Việt- Nam phổ- thông của Đào Văn Tập [118]. Công

trình này vẫn bộc lộ khá nhiều nhược điểm ở các khâu xác định nghĩa, sắp xếp

nghĩa, phân biệt các ĐVĐN với các ĐVĐÂ. Chẳng hạn: khi xác định nghĩa của

hình vị Hán Việt 白(bạch) tác giả đã gán thêm cho nó nghĩa của hình vị bạch

trong các kết hợp như: bạch đinh, bạch thủ, trinh bạch khi quan niệm hình vị này

ngoài cái nghĩa là “sắc trắng” ra còn có nghĩa là “sạch sẽ, sáng sủa; trắng trơn,

không có của cải, không có chức tước” (Tự- điển Việt- Nam phổ- thông; tr 27).

Về việc xử lí các ĐVĐÂ, Đào Văn Tập đã đem tất cả các ĐVĐÂ mà ngày nay

được dán nhãn là “ĐÂ được cấu tạo theo kiểu chuyển loại” như: cuốc (dt) <->

cuốc (đgt); bào (dt) <-> bào (đgt)... nhập chung vào một mục từ ĐN. (Tự- điển

Việt- Nam phổ- thông; tr.139, 34).

8

Năm 1969, đáng chú ý là quan điểm phân loại từ ĐN và từ ĐÂ của Hoàng

Phê [104, tr.3-18]. Ông cho rằng: “phân biệt HT từ nhiều nghĩa với HT từ ĐÂ là

một vấn đề khó khăn. Nhiều khi rất khó quyết định nên coi đây là một từ nhiều

nghĩa hay là nên tách ra thành mấy từ ĐÂ. Trong từ điển phổ thông, nếu quan hệ

giữa các nghĩa ngày nay không rõ ràng lắm, thì tốt hơn là tách ra thành Đ”.

Năm 1969, Đỗ Hữu Châu [17, tr.43-50] thông qua quá trình khảo sát việc giải

thích nghĩa của các ĐV từ trong TĐTV 1967 (Văn Tân chủ biên) đã thể hiện quan

điểm và phương pháp xử lí nghĩa của mình đối với các ĐVĐN. Đây là một công trình

thể hiện rõ những vấn đề lí luận ở giai đoạn này.

Trong phần thứ nhất của bài viết, ông nhấn mạnh tầm quan trọng và những

khó khăn của việc biên soạn từ điển một thứ tiếng, đặc biệt là những khó khăn

trong việc giải thích nghĩa của từ TV và khẳng định: “điều quan trọng nhất là

tính hệ thống trong cách làm việc”.

Ở phần thứ hai, ông chỉ ra những nhược điểm thường thấy trong những

quyển từ điển của ta trước đó. Trong đó, nhược điểm lớn nhất theo ông là “rời

rạc, thiếu tính hệ thống”. Nhược điểm này thể hiện ở ba điểm sau: (1) Bộc lộ ở

cách sắp xếp theo thứ tự chữ cái mà hệ quả của nó là “không thể giúp cho

người đọc thấy được những mối quan hệ giữa các ĐV từ vựng [...] cho rằng

từ vựng chỉ là một tập hợp hỗn độn những ĐVcô lập với nhau”.(2) Bộc lộ ở

cách giải thích các nghĩa khác nhau cho cùng một ĐV từ vựng mà hệ quả của nó

là “người đọc từ cách giải thích đó thường không thấy được mối quan hệ giữa

các nghĩa ấy như thế nào”. (3) Bộc lộ ở cách tách từ ĐÂ và tách nghĩa của từ với

những biểu hiện sau: ở những từ có cấu trúc ngữ nghĩa giống nhau thì trong trường

hợp A được tách thành 04 hay 05 nghĩa nhưng ở trường hợp B lại gộp thành 01

hay 02 nghĩa. Có khi, với hai nghĩa khác nhau của cùng một từ, tác giả tách làm

hai từ nhưng ở một từ khác tương tự lại được nhập làm một như trường hợp các từ

băng, đèn, bay.

Trong phần thứ ba, ông trình bày quan điểm của mình về cơ sở phân tách

nghĩa của từ, các nguyên tắc cần chú ý khi giải thích nghĩa của từ trong từ điển.

Tác giả đưa ra 02 nguyên tắc và 03 tiêu chuẩn khi giảng nghĩa của các từ như sau:

9

Nguyên tắc thứ nhất, “khi xử lí một ĐV từ vựng nào đó về mặt nghĩa cần

chú ý đến các HT giống nhau xảy ra trong toàn nhóm, tránh tình trạng cô lập đối

tượng. […] Vì việc tách một ĐV thành những từ riêng rẽ có liên quan tới lí luận

về ranh giới giữa HT nhiều nghĩa và HTĐ”. Đỗ Hữu Châu đề ra tiêu chuẩn

tách từ ĐÂ như sau: “nếu HT chuyển nghĩa xảy ra một cách cá biệt mà ngày

nay không thể giải thích mối quan hệ giữa nghĩa ấy với các nghĩa khác của

từ thì có thể tách nghĩa ấy thành một từ ĐÂ hay một quán ngữ.... Không thể

tách các từ ĐÂ nếu HT chuyển nghĩa đó xảy ra giống nhau trong cả một loạt

từ. Còn đối với các HT cá biệt thì việc có tách thành từ ĐÂ hay không là tùy

vào cách xử lí của người biên soạn và việc ấy không có ảnh hưởng gì tới

toàn hệ thống”.

Nguyên tắc thứ hai, “khi xử lí một từ cần nêu được thuộc tính thường trực

tổ chức và chi phối các nghĩa khác nhau của từ đó”. Theo Đỗ Hữu Châu, “đối với

các từ một nghĩa thì việc so sánh nó với các từ khác cùng nhóm (trái nghĩa, đồng

nghĩa) là điều quan trọng. Còn đối với từ nhiều nghĩa thì ngoài việc cần so sánh

với các từ cùng nhóm còn cần so sánh các nghĩa khác nhau của nó với nhau”.

Về việc sắp xếp các nghĩa của từ theo thứ tự, ông cho rằng: “nên sắp xếp

làm sao cho quan hệ giữa các nghĩa được nổi bật, làm sao cho thuộc tính thường

trực được nổi bật và được hiện lên trong lời giải thích”.

Về việc tách các nghĩa, ông đề ra ba tiêu chuẩn sau: (1) “Nếu từ được giải

thích có bao nhiêu đặc điểm từ loại khác nhau thì có thể chia thành bấy nhiêu

nghĩa”, (2) “nếu trong cùng một đặc điểm từ loại, từ đó có bao nhiêu đặc điểm cú

pháp (đặc điểm kết hợp) thì có thể có bấy nhiêu nghĩa trong phạm vi đặc điểm từ

loại ấy”, (3) “sau khi đã chia thành những đặc điểm ngữ pháp khác nhau nếu

trong cùng một đặc điểm ngữ pháp, từ ấy có khả năng kết hợp với bao nhiêu từ

loại khác xét về ngữ nghĩa thì có thể chia thêm thành bấy nhiêu nghĩa”. Theo ông,

trong ba tiêu chuẩn trên thì các tiêu chuẩn 01 và 02 là tiêu chuẩn mạnh còn tiêu

chuẩn 03 là tiêu chuẩn thứ yếu hay được dùng trong các cuốn từ điển trước đây.

Xem xét quan điểm của Đỗ Hữu Châu, chúng tôi thấy rằng: tác giả nhấn

mạnh và chú ý nhiều tới tiêu chuẩn tính thường trực và quan điểm hệ thống trong

10

việc xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng trong từ điển. Qua quan điểm này, chúng ta

thấy được những khó khăn và những giải pháp của các nhà từ điển học cũng như

của tác giả khi xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng trong từ điển, nhất là việc thu thập,

sắp xếp, xử lí các từ ĐÂ và ĐN.

Năm 1971, Nguyễn Thiện Giáp [43, tr.21-27] trình bày quan điểm về

HTĐÂ trong TV. Theo ông, có 02 đặc điểm quan trọng chi phối HTĐÂ trong TV

là: (1) không biến hình và (2) hình vị trong TV thường trùng với âm tiết. Theo

Nguyễn Thiện Giáp, từ ĐÂ trong TV có 04 đặc điểm sau: từ đơn một âm tiết

nhiều, chỉ tìm được một SL rất nhỏ từ đa âm tiết và từ ghép ĐÂ với nhau nhờ HT

chuyển loại. HTĐÂ trong TV ít hơn so với THHĐ bởi SLÂT cơ bản trong tiếng

Hán ít hơn TV và bao giờ cũng có giá trị đối lập về ý nghĩa. Đặc điểm nổi bật của

HTĐÂ trong TV là ĐÂ bộ phận (ĐÂ xảy ra giữa một hình vị cấu tạo từ với một

từ một hình vị). Ông phân loại từ ĐÂ trong TV thành 02 loại là: từ ĐÂ hoàn toàn

và từ ĐÂ bộ phận.

Từ 1976 tới nay, HTĐÂ, ĐN của TV tiếp tục nhận được sự quan tâm của

các nhà Việt ngữ học. Đáng chú ý là các công trình và quan điểm sau:

Năm 1976, đáng chú ý là quan điểm của Hồ Lê [77, tr.111-254]. Tác giả,

khi trình bày về Các mẫu cấu tạo từ tiếng Việt (06 loại nguyên vị), thông qua

việc lập danh sách các loại nguyên vị trong TV đã phân biệt rất rõ ràng các

nguyên vị ĐÂ trong hệ thống nguyên vị của TV. Bên cạnh công trình này Hồ Lê

còn có một số công trình khác hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp bàn về HT từ ĐÂ,

ĐN trong TV như: [80, tr.59-152] (khi trình bày về đặc điểm ngữ nghĩa – cú

pháp của các từ loại dt, đg, tt, phụ từ; khi trình bày những tiểu loại chính trong

từng loại từ, đặc biệt là khi bàn về sự phân loại đg). Về HTĐN nói chung và về

từ ĐN nói riêng, ông cũng có những đóng góp và kiến giải sâu sắc về lí luận [82].

Năm 1978, Đinh Văn Đức [40, tr.31-39] đã gián tiếp bày tỏ quan điểm của

mình về từ ĐÂ (ĐÂ do chuyển loại) và việc phân loại từ ĐÂ. Theo ông, những

ĐVĐÂ do chuyển loại có SL không lớn, là những ĐV có chung biểu vật nhưng

thuộc về những từ loại khác nhau, không có sự phân biệt về hình thái học nhưng có

những đặc trưng cú pháp khác nhau, có những quan hệ mới trong những trường

11

hợp khác nhau (khi làm chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ), bởi vậy tác giả cho rằng nên

tách ra hai từ riêng biệt và nên xếp chúng vào hai từ ĐÂ ngữ pháp và chỉ có thể

phân biệt với nhau bởi các ý nghĩa ngữ pháp. Và như vậy, chúng trở thành một tiểu

loại ĐÂ (ĐÂ ngữ pháp) bên cạnh loại ĐÂ truyền thống là ĐÂ ngẫu nhiên.

Năm 1978, Nhữ Thành [124, tr.40-48] tìm hiểu từ ĐÂ dưới góc độ tu từ

học. Qua việc khảo sát bốn kiểu hoạt động của âm tiết TV (hoạt động độc lập

thành một từ, hoạt động hạn chế với tư cách là một yếu tố CTT, hoạt động láy

âm, hoạt động kết hợp đơn nhất), tác giả đưa ra 05 nhóm đối lập có thể tạo nên

ĐÂ trong cách chơi chữ cổ và 03 cách đối lập khác do vai trò của từ phiên âm

trong TV hiện đại có thể tạo nên HTĐÂ. Từ việc đưa ra những nhóm đối lập

trên, tác giả đã loại trừ hai HT: (1) Âm tiết phiên âm ĐÂ với âm tiết phiên âm

và (2) âm tiết láy âm ĐÂ với âm tiết láy âm. Tiếp đó, tác giả đi vào khảo sát

năm nhóm đối lập đầu tiên và kết luận “hình thức âm tiết tự do ĐÂ với âm tiết

tự do xuất hiện nhiều nhất”.

Năm 1978, còn có quan điểm của Nguyễn văn Tu [138]. Quan điểm của ông tập

chung chủ yếu ở chương VI (Nghĩa từ vựng và kết cấu nghĩa của từ, tr.93-179) và ở

chương XV (Từ điển Việt Nam, tr.321-337). Trong chương VI, ông bàn về: nguồn gốc,

cách phân loại, cách phân giới hạn từ ĐÂ. Ông chia từ ĐÂ thành hai kiểu: (1) Từ ĐÂ từ

vựng và (2) từ ĐÂ từ vựng – ngữ pháp. Theo tác giả, từ ĐÂ có ba nguồn gốc sau: (1) Từ

ĐÂ ngẫu nhiên, (2) từ ĐÂ tạo ra do sự diễn biến về ngữ âm, (3) những từ ĐÂ do sự

tách rời các ý nghĩa của một từ ĐN. Tác giả đề ra 03 cách phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều

nghĩa: (1) tìm những dấu hiệu khách quan, (2) áp dụng “tiêu chuẩn nội dung”, (3) chú ý

cả đến mặt lôgích, mặt tâm lí của nghĩa và mặt ngôn ngữ mà trong đó nghĩa tồn tại.

Theo ông, trong ba cách trên, cách thứ ba là cách có hiệu năng hơn trong việc phân biệt

từ nhiều nghĩa và từ ĐÂ trong TV.

Năm 1981, đáng chú ý là quan điểm của Đỗ Hữu Châu [19]. Ông cho rằng:

“những ĐVĐÂ là những ĐV giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau

về ý nghĩa”. Và “chỉ nên xem là ĐÂ thực sự khi các ĐV trong cùng một cấp độ

ĐÂ.” (tr.228). Ông cũng không coi là ĐÂ những trường hợp do cách phát âm

12

lệch chuẩn gây ra. Lí giải nguyên nhân hình thành HTĐÂ, ông cho rằng: do sự

trùng hợp ngẫu nhiên về ngữ âm, do sự rút gọn gây ra.

Bàn về việc phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa, Đỗ Hữu Châu cho rằng:

“khó khăn nhất là phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa. Có những từ mà nghĩa

chuyển biến đến một mức độ nào đấy thì tách ra thành hai ba từ ĐÂ... tuy nhiên

rất nhiều trường hợp chuyển nghĩa làm chúng ta băn khoăn...” Những trường hợp

khó xác định theo ông là: (1) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự

chuyển từ loại lớn như: cuốc (cuốc đất) và cuốc (cái cuốc), thịt (miếng thịt)

và thịt (thịt một con lợn)..., (2) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự

chuyển tiểu loại như: chạy (chạy trên đường) và chạy (chạy gạo)..., (3)

những trường hợp nhiều nghĩa mà quan hệ giữa các nghĩa tuy đã khá mờ

nhạt nhưng vẫn chưa mất hoàn toàn như: lóng (lóng tre) và lóng (lóng tay),

lỏi (tốt lỏi) và lỏi (thằng lỏi)..., những khó khăn trên theo ông là vẫn chưa

thể giải quyết được (tr.231-233).

Năm 1989, đáng chú ý là quan điểm của Lê Quang Thiêm [130, tr.116-189].

Trong chương IV, tác giả khẳng định: “…TV, do những đặc điểm của hình vị,

thường đơn nghĩa hoặc có ĐN thì cũng có SL rất hạn chế […] hình vị TV có đặc

trưng nổi bật nhất là ở mặt ĐÂ. Do hình vị TV tuyệt đại bộ phận là có nghĩa,

ngoài từ, phạm vi hoạt động rộng, hoàn thành nhiều chức năng nên thường có

nhiều cặp ĐÂ: về (đgt), về (từ liên hệ)” (tr.117). Trong chương VII, khi bàn về

Biểu hiện ĐÂ giữa các ngôn ngữ, Lê Quang Thiêm đã chia HTĐÂ thành: (1)

HTĐÂ ngẫu nhiên giữa các ngôn ngữ, (2) ĐÂ do kết quả tiếp xúc, vay mượn, (3)

HTĐÂ do sự giống nhau hoặc gần gũi về ngữ hệ và cấu trúc ngôn ngữ.

Khi bàn về Các bình diện ĐÂ, tác giả cho rằng “ĐÂ là những ĐV khác

nhau, có hình thức ngữ âm giống nhau. Như vậy, sự khác nhau chủ yếu là về mặt

nội dung. Và cần được xác định trên ba cơ sở là: (1) dựa vào sự phân biệt cấp độ

(cùng hoặc khác cấp độ), (2) các loại ĐV xác định (từ, hình vị, từ tổ), (3) các

mức độ khác nhau của sự Đ” (tr. 139). Theo tác giả, những ĐV giống nhau về

âm thanh mà khác cấp độ thì chắc chắn là ĐÂ. Đó là những ĐVĐÂ khác bậc.

Còn những ĐV giống nhau về âm thanh, ở cùng một cấp độ, khác nhau về nội

13

dung thì là những ĐVĐÂ cùng bậc (ĐÂ giữa từ với từ, hình vị với hình vị, từ tố

với từ tố). Trong hai loại trên, Lê Quang Thiêm xếp loại 01vào ĐÂ hình vị. Theo

ông, khi phân biệt các hình vị ĐÂ cũng nhất thiết phải dựa vào tiêu chuẩn ý

nghĩa (ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa tạo từ, ý nghĩa cấu trúc). Theo

ông, “Trong TV, các hình vị ĐÂ là các âm tiết, chúng có SL lớn…, TV có nhiều

ĐÂ khác bậc (từ - hình vị; từ thuần – hình vị Hán Việt)” (tr.140).

Bàn về các dạng thể hiện ĐÂ từ, ông cho rằng “loại ĐV thể hiện ĐÂ điển

hình hơn cả là từ, vì rằng từ là ĐV phức tạp về cấu trúc và ý nghĩa. Từ cũng là

ĐV đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau và có nhiều hình thức thể hiện trong

ngôn ngữ và trong lời nói. Xét về mặt ý nghĩa, từ cũng là ĐV phức tạp, điển hình

về nghĩa”. Theo Lê Quang Thiêm “đối với ĐÂ từ vựng, cần phải xem xét: các

dạng biểu hiện ĐÂ của từ (có ý nghĩa từ vựng khác nhau) và ĐÂ hình thái của từ

(có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau)”. Đáng chú ý là những nhận xét của tác giả về

02 khái niệm “hình thức từ” và “âm thanh từ”. Theo ông, “hình thức từ đối với

nhiều ngôn ngữ hiện đại biểu hiện ở mặt âm thanh và cả chữ viết. Khi nói về sự

giống nhau hay đồng nhất về hình thức thì trước hết và quan trọng nhất là âm

thanh. Song mặt khác không kém phần quan trọng, mặc dầu không hoàn toàn

chính xác là giống nhau về chữ viết. Chữ viết là biểu hiện kèm theo, vì hệ thống

chữ viết dù là “ghi âm vị” như TV cũng còn nhiều bất hợp lí cho nên không thể

dựa vào chữ viết làm chính mà chỉ xem là biểu hiện kèm theo. ĐÂ là giống nhau

về âm thanh. Đó là điều kiện tiên quyết, bắt buộc…” (tr.142). Theo tác giả, ĐÂ

hình thái là: “khi 02 hình thái từ (nói và viết) như nhau, có ý nghĩa ngữ pháp

khác nhau thì đó là ĐÂ hình thái”. Theo ông, TV và các ngôn ngữ đơn lập không

có ĐÂ hình thái.

Theo Lê Quang Thiêm, khi nói về ĐÂ cần chú ý tới các dạng ĐÂ và các

thuật ngữ sau: (1) ĐT dạng: là dạng viết giống nhau của các từ khác nhau (xét về

ý nghĩa từ vựng), (2) ĐÂ dạng: là dạng nói giống nhau của những từ khác nhau

(xét về ý nghĩa từ vựng), là ĐÂ theo nghĩa rộng, (3) từ ĐÂ: là những từ khác

nhau mà viết và nói như nhau, hay là từ ĐÂ hoàn toàn, ĐÂ theo nghĩa hẹp, (4)

14

ĐÂ hình thái: là ĐÂ ngữ pháp, đó là những hình thái của cùng một từ, giống

nhau về mặt âm thanh và chữ viết, có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau.

Khi bàn về đặc điểm của sự thể hiện ĐÂ ở các ngôn ngữ (tr 144) Lê Quang

Thiêm cho rằng: “ (1) TV là ngôn ngữ không biến đổi hình thái từ để biểu hiện ý

nghĩa ngữ pháp nên tiêu chuẩn quan trọng để xác định từ ĐÂ hoàn toàn là khả

năng kết hợp của từ, (2) ĐÂ bộ phận (thường là các từ ĐÂ khác từ loại, khả năng

kết hợp ngữ pháp khác nhau) như: về1 (về nhà) về2 (bàn về)…, (3) ĐÂ dạng, có

khi không được thể hiện ra bằng chữ viết cho nên không thể căn cứ vào chữ viết

để xác định: ty1 (ty; sở); ti2 (cái ti). Trong TV, HTĐÂ dạng xảy ra với từ có cách

viết với các âm vị: k – k, c; i – y; z – d, gi… như: cuốc1 (cái cuốc) và quốc2 (tổ

quốc); dây1 (sợi dây) và giây2 ( giây phút), (4) khi bàn về Đồng tự dạng trong TV

phải chú ý tới khả năng khu biệt nghĩa của thanh không dấu, (5) TV không biến

đổi hình thái nên không có vấn đề đồng hình thái”.

Theo Lê Quang Thiêm, “HTĐN là HT một ĐV ngôn ngữ mà cấu tạo nội

dung của nó có nhiều nghĩa khác nhau… là HT phổ biến trong mọi ngôn ngữ”.

(tr.174). Chọn cách hiểu “từ ĐN là từ mà nội dung bao gồm một số nghĩa khác

nhau, các nghĩa này lập thành một hệ thống nằm trong các mối quan hệ liên kết

với nhau, gồm một vài nét nghĩa chung và nhiều nét nghĩa loại biệt. Các nét

nghĩa loại biệt thường biểu thị các đối tượng khác nhau nhưng lại được đặt cơ sở

trên một số giống nhau về chức năng, hình thức hoặc thuộc tính nào đó của đối

tượng”. Ông nhấn mạnh: “ĐN từ vựng trước hết là ĐNBN vì đó là dạng nghĩa

khái quát, ổn định, mang tính hệ thống cao […]. Nhờ có tính hệ thống ổn định

này mà ta mới có thể phân lập, tổng hợp, mô tả theo đặc điểm và tôn ty nhất định

trong TĐ […]. Dựa trên cấu trúc biểu niệm thì mới có cơ sở để đối chiếu đặc

điểm ĐN của mỗi ngôn ngữ như là sản phẩm sáng tạo, như là thành tựu được tập

thể ngôn ngữ ấy xây dựng nên. Nó cũng cho phép thấy rõ cái chung và cái riêng

của từ ĐN trong tất cả các lớp từ, các từ loại cơ bản của ngôn ngữ.” (tr.178).

Trong công trình này, Lê Quang Thiêm sau khi phân tích các dt, đg, tt trong

37.088 từ TV đã đưa ra số liệu: trong TV, từ đơn nghĩa chiếm 61,48 %; từ ĐN chiếm

38,52 %. Và chỉ ra sự phân bố về tỷ lệ ĐN qua các từ loại chính như sau:

15

DANH TỪ ĐỘNG TỪ TÍNH TỪ

ĐN Đơn nghĩa ĐN Đơn nghĩa ĐN Đơn nghĩa

30,16 % 69,84 % 31,48 % 69,52 % 27,70 % 72,30 %

Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ; tr.178, 179.

Bàn về đặc điểm tổ chức nội dung của từ ĐN, ông chỉ ra tình hình phân bố DLN

của các ĐVĐN trong TV (tính theo tỷ lệ %) như sau:

02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13

79,30 % 12,60

%

6,38

%

1,82

%

0,82

%

0,53

%

0,54

%

0,17

%

0,12

%

0,9

%

0,08

%

….

Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, tr.184.

Với quan điểm đồng đại, Lê Quang Thiêm cho rằng: nghĩa cơ bản là nghĩa

có chứa các nét nghĩa được đặt điều kiện chủ yếu bằng các quan hệ hệ hình.

Nghĩa không cơ bản là nghĩa mà các nét nghĩa tạo nên chúng phụ thuộc nhiều

vào các quan hệ cú đoạn. Trong một từ ĐN, có một nghĩa cơ bản và một số nghĩa

không cơ bản. Sự phân biệt nghĩa cơ bản, không cơ bản của một từ có thể dựa

vào các mức độ khác nhau của sự phụ thuộc nhiều hơn vào các quan hệ hệ hình

và ít hơn vào các quan hệ cú đoạn. Theo Lê Quang Thiêm, mối quan hệ về nghĩa

về mặt đồng đại được tổ chức theo 03 loại hình là: loại kế tiếp, loại song song,

xen kẽ kế tiếp với song song. Trong đó: (1) mối quan hệ kế tiếp là quan hệ đặc

trưng cho từ chỉ có 02 nghĩa và những từ nhiều hơn hai nghĩa mà các nghĩa liên

kết nhau theo tổ chức đơn tuyến, (2) mối quan hệ song song chỉ xuất hiện ở

những từ trên hai nghĩa mà các nét nghĩa liên kết theo tổ chức đa tuyến (tổ chức

hình cây, tẽ nhánh), (3) mối quan hệ xen kẽ giữa kế tiếp và song song xẩy ra với

những từ trên 03 nghĩa và theo một tổ chức phức hợp.

Bàn về giới hạn của việc phân li ĐN thành ĐÂ và tiêu chuẩn xác định

những ĐVĐÂ ngữ nghĩa ông cho rằng: “sự tồn tại hay vắng mặt nét nghĩa chung

trong các nghĩa của từ ĐN là tiêu chuẩn xác định ĐN và ĐÂ ngữ nghĩa”.

Trong công trình này, tác giả còn nhấn mạnh đến việc cần thiết phải phân

biệt các loại quan hệ tôn ty giữa các loại nghĩa trong từ ĐN khi biên soạn TĐ

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!