Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam
Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ĐÌNH NHẬT
ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT THỰC HIỆN
HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ MINH HÙNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên
cứu của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Minh Hùng. Các
thông tin, bản án, quyết định được trích dẫn trong luận văn là trung thực, chính xác.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Đình Nhật
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật Dân sự
BLDS năm 1995 Bộ luật Dân sự năm 1995 (Bộ luật số: 44-L/CTN) ngày
28/10/1995
BLDS năm 2005 Bộ luật Dân sự năm 2005 (Bộ luật số: 33/2005/QH11) ngày
14/6/2005
Bộ Nguyên tắc Bộ Nguyên tắc của Unidroit về Hợp đồng thương mại
Unidroit quốc tế 2004
Công ước Viên Công ước của Liên hợp quốc năm 1980 về hợp đồng mua
năm 1980 bán hàng hóa quốc tế
LTM năm 2005 Luật Thương mại năm 2005 (Luật số: 36/2005/QH11) ngày
14/6/2005
PLHĐDS năm 1991 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 (Pháp lệnh không số)
ngày 29/4/1991
Đơn phương chấm dứt ĐPCD
Nxb Nhà xuất bản
TP. Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT
HỢP ĐỒNG...........................................................................................................9
1.1. Khái quát về đơn phương chấm dứt hợp đồng.....................................9
1.1.1. Khái niệm đơn phương chấm dứt hợp đồng ...........................................9
1.1.2. Đặc trưng của đơn phương chấm dứt hợp đồng...................................12
1.1.3. Mục đích của đơn phương chấm dứt hợp đồng....................................13
1.1.4. Phân loại đơn phương chấm dứt hợp đồng..........................................15
1.1.5. So sánh đơn phương chấm dứt hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng ............17
1.2. Căn cứ áp dụng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng...................21
1.2.1. Có thỏa thuận trong hợp đồng.............................................................22
1.2.2. Có quy định của pháp luật...................................................................23
1.2.3. Theo tập quán, thông lệ quốc tế...........................................................26
1.2.4. Các trường hợp hạn chế quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng .........32
1.3. Nghĩa vụ của bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng............33
1.3.1. Thông báo về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng.............................33
1.3.2. Hạn chế tổn thất..................................................................................36
1.4. Hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ..............39
1.4.1. Thời điểm hợp đồng chấm dứt hiệu lực................................................39
1.4.2. Xử lý quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng bị đơn phương
chấm dứt.......................................................................................................41
1.4.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do việc đơn phương chấm dứt hợp
đồng gây ra cho các bên ...............................................................................43
1.5. Thủ tục thực hiện việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ...................49
1.5.1. Chủ thể thực hiện việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ......................49
1.5.2. Thủ tục, thẩm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng .........................49
Kết luận chương 1.......................................................................................51
CHƯƠNG 2: BẤT CẬP CỦA QUY ĐỊNH VỀ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM
DỨT HỢP ĐỒNG TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN.....................................................................................................52
2.1. Về tiêu chí xác định đơn phương chấm dứt hợp đồng hay hủy bỏ hợp
đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 ....................................52
2.1.1. Nhầm lẫn giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng
trong thực tiễn xét xử ....................................................................................52
2.1.2. So sánh pháp luật................................................................................53
2.1.3. Kiến nghị hoàn thiện ...........................................................................57
2.2. Hoàn thiện căn cứ áp dụng quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.60
2.2.1. Có thỏa thuận trong hợp đồng.............................................................60
2.2.2. Có quy định của pháp luật...................................................................62
2.2.3. Các trường hợp khác...........................................................................64
2.3. Sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ của bên có quyền đơn phương
chấm dứt hợp đồng .....................................................................................68
2.3.1. Thông báo về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng.............................68
2.3.2. Hạn chế tổn thất..................................................................................75
2.4. Hoàn thiện các quy định về xử lý hậu quả pháp lý của việc đơn
phương chấm dứt hợp đồng .......................................................................76
2.4.1. Xác định đúng, rõ về thời điểm chấm dứt hợp đồng.............................76
2.4.2. Xử lý quyền và nghĩa vụ của các bên khi hợp đồng bị đơn phương
chấm dứt.......................................................................................................79
2.4.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do việc đơn phương chấm dứt hợp
đồng gây ra cho các bên ...............................................................................80
2.5. Bổ sung quy định về thủ tục thực hiện việc đơn phương chấm dứt
hợp đồng......................................................................................................84
2.5.1. Chủ thể thực hiện việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ......................84
2.5.2. Thủ tục, thẩm quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng .........................85
Kết luận chương 2.......................................................................................86
KẾT LUẬN..........................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong đời sống xã hội phần lớn giao lưu dân sự giữa các chủ thể với nhau
đều được thể hiện thông qua hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền nghĩa vụ nhằm đạt được lợi ích mà họ
mong muốn khi giao kết. Do đó, khi hợp đồng được giao kết hợp pháp và có hiệu
lực pháp luật sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên và ràng buộc các bên
phải thực hiện đúng, đầy đủ hợp đồng.
Tuy nhiên, không phải lúc nào các bên cũng đạt được mục đích đặt ra như dự
tính ban đầu, điều này có nghĩa là một trong các bên không thực hiện, thực hiện không
đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ quy định trong hợp đồng và gây thiệt hại
cho phía bên kia (bên bị vi phạm hợp đồng). Trong những trường hợp như vậy, để bảo
vệ lợi ích cho bên bị vi phạm hợp đồng cũng như dung hòa lợi ích của các bên, pháp
luật của nhiều nước trên thế giới cũng như pháp luật Việt Nam đã quy định về hủy bỏ
hợp đồng, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng (gọi tắt đơn phương chấm dứt
hợp đồng). Triết lý của hợp đồng, hợp đồng sinh ra để thực hiện, khi hợp đồng bị vi
phạm hoặc hợp đồng không được thực hiện vấn đề đặt ra là có quyền đơn phương
chấm dứt (ĐPCD) hợp đồng đang còn hiệu lực hay không, bởi vì khi đã làm chấm dứt
hợp đồng, các bên không còn cơ hội cứu vãn quan hệ hợp đồng đã xác lập trước đó.
Có thể thấy, hủy bỏ hợp đồng hoặc ĐPCD hợp đồng là những biện pháp phát sinh hệ
quả pháp lý khá nghiêm trọng đối với các bên, vì nó triệt tiêu hợp đồng, làm gia tăng
các rủi ro pháp lý và gây ra những thiệt hại kinh tế đáng kể cho các bên. Bởi vậy, pháp
luật không khuyến khích các bên tùy tiện chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng, nhưng
ngược lại, pháp luật cũng không có sự cấm đoán, hạn chế hành vi này, vì bản thân nó
nếu được sử dụng hợp lý sẽ trở thành giải pháp tích cực trong việc xử lý sự vi phạm
hoặc khi muốn được chấm dứt hợp đồng khi có lý do hợp lý.
ĐPCD hợp đồng được quy định tại Điều 426 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm
2005 và không phải là biện pháp mới; quy định tương tự như vậy cũng đã tồn tại
trong BLDS năm 1995, tuy nhiên thuật ngữ “đình chỉ” được thay thế trong BLDS
năm 2005 bằng thuật ngữ “chấm dứt”. ĐPCD hợp đồng cũng giống như hủy bỏ hợp
đồng là một trong những căn cứ chấm dứt thực hiện hợp đồng, được xem là biện
pháp chấm dứt hợp đồng đặc biệt do được áp dụng khi có sự vi phạm hợp đồng của
một bên, ngoại lệ trong một số trường hợp BLDS năm 2005 cho phép ĐPCD hợp
đồng ngay cả khi không có sự vi phạm nhưng vì việc tiếp tục thực hiện không mang
2
lại lợi ích cho một bên. Về mặt lý luận, ĐPCD hợp đồng là nội dung không thể
thiếu của pháp luật về hợp đồng. Tuy nhiên, thông qua việc phân tích, đối chiếu văn
bản pháp luật hiện hành với thực tiễn xét xử tại các Tòa án hoặc một số tình huống
thường gặp trong giao lưu dân sự cho thấy có nhiều điểm bất cập, thể hiện nhiều
vấn đề chưa hoàn chỉnh trong các quy định về ĐPCD hợp đồng. Cụ thể: các quy
định của BLDS về căn cứ ĐPCD hợp đồng chưa mang tính bao quát cao, ví dụ: đối
với những loại hợp đồng không được liệt kê trong phần hợp đồng thông dụng và các
bên không thỏa thuận điều kiện chấm dứt, chúng ta không có quy phạm cho phép
chấm dứt hợp đồng và chính cách điều chỉnh như trong BLDS năm 2005 đã tạo nên
“lỗ hổng hay điểm trống pháp lý”
1
, hay nói cách khác BLDS năm 2005 chưa có quy
định mang tính bao quát về mức độ của sự vi phạm là cơ sở để cho phép bên bị vi
phạm ĐPCD đối với mọi hợp đồng có tính chất song vụ; bên có quyền có được
phép chấm dứt hợp đồng trong trường hợp vi phạm dự đoán trước hoặc khi có sự
thay đổi của hoàn cảnh vẫn chưa được dự liệu trong luật; thủ tục thực hiện việc
ĐPCD hợp đồng gần như bị “vô hiệu hóa” bởi sự chồng chéo của ngành luật khác;
quy định về thông báo ĐPCD hợp đồng có phải là một điều kiện bắt buộc khi bên
có quyền muốn ĐPCD hợp đồng hay không vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau;
nghĩa vụ hạn chế tổn thất của bên có quyền ĐPCD hợp đồng vẫn chưa được BLDS
năm 2005 đề cập đến; mối quan hệ khi áp dụng biện pháp ĐPCD hợp đồng đối với
một số điều khoản sau khi hợp đồng bị ĐPCD hay điều khoản giải quyết tranh chấp
chưa được BLDS quan tâm đúng mức…
Bên cạnh đó, thực tiễn giải quyết tranh chấp của Tòa án cũng đã gặp những
vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về biện pháp ĐPCD hợp đồng và hủy bỏ
hợp đồng, “việc xác định trường hợp nào là hủy bỏ, trường hợp nào là đơn phương
chấm dứt không đơn giản”
2
. Vậy sự giống và khác nhau cơ bản giữa hai biện pháp này
là gì? và dựa vào những tiêu chí nào để phân biệt chúng? sự cần thiết có phải giữ lại
quy định về ĐPCD hợp đồng hay không cũng là vấn đề cần nghiên cứu.
Do vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quan cả về lý luận cũng như thực tiễn
về quy định ĐPCD hợp đồng sẽ cho thấy cách nhìn toàn diện hơn và thông qua đó
đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan
đến vấn đề này, đó chính là lý do để tác giả mạnh dạn chọn chủ đề “Đơn phương
1 Đỗ Văn Đại (2010), “Điều kiện để chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng khi một bên không thực hiện đúng hợp
đồng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật- Số chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự (Phần liên quan đến
Quyền sở hữu tài sản và hợp đồng), tr. 133. 2 Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 187.
3
chấm dứt thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến nội
dung đề tài, được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm và tiếp cận ở các góc độ
khác nhau. Dưới hình thức luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ luật học có những công
trình nghiên cứu sau:
- Luận án tiến sỹ- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Hiệu
lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Minh Hùng
(năm 2010). Ở đây có một phần nội dung tác giả đề cập đến nguyên tắc thiện chí,
trung thực khi phân tích những bất cập của BLDS về hiệu lực ràng buộc của hợp
đồng, hoặc việc vận dụng nguyên tắc này trong vấn đề sửa đổi hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi (hardship clause).
- Luận văn thạc sỹ- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Chế
tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng trong hoạt động thương mại”
của tác giả Nguyễn Thị Việt Hà (năm 2010). Nội dung luận văn tập trung phân tích
những bất cập, một số quy định chưa hợp lý, chưa chặt chẽ dẫn đến thực tiễn áp dụng
không thống nhất đối với chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng
trong hoạt động thương mại, qua đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện Luật Thương
mại (LTM) năm 2005.
- Luận văn thạc sỹ- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Hủy
bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của tác giả Ngô Thị
Minh Loan (năm 2014). Luận văn đi sâu phân tích về điều kiện, hậu quả pháp lý của
hủy bỏ hợp đồng trong BLDS Việt Nam. Tác giả chỉ ra rằng BLDS hiện hành chưa
có sự thống nhất nền tảng lý luận về mức độ vi phạm nghĩa vụ để trao quyền hủy bỏ
hợp đồng, vi phạm nghiêm trọng chưa trở thành tiêu chí chung để hủy bỏ hợp đồng
trong mọi trường hợp. Về hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị hủy bỏ, BLDS đã thể
hiện sự bất cập trong nguyên tắc hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, ảnh hưởng đến
người thứ ba, ảnh hưởng đến một số điều khoản khác của hợp đồng. Tuy nhiên,
phạm vi luận văn chỉ giới hạn tập trung nghiên cứu đến vấn đề hủy bỏ mà không đề
cập nhiều đến vấn đề ĐPCD hợp đồng.
- Luận văn thạc sỹ- Trường Đại học Luật Hà Nội về “Đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng dân sự theo pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị
Ngọc Oanh (năm 2010). Luận văn phân chia hai trường hợp ĐPCD hợp đồng: khi có
4
sự vi phạm của bên đối tác và khi không có sự vi phạm của bên đối tác. Trong phần
kiến nghị của mình, tác giả đề nghị nên quy định bổ sung thêm căn cứ về ĐPCD
hợp đồng: khi một bên gặp phải các sự kiện bất khả kháng, vi phạm hợp đồng dự
đoán và khi có sự thay đổi của hoàn cảnh hợp đồng nhưng chưa có sự phân tích và
dẫn chiếu sâu.
- Luận văn thạc sỹ- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Vi
phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ- Sự cần thiết phải điều
chỉnh trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Trong (năm
2006). Trong công trình này, tác giả nghiên cứu chế định vi phạm hợp đồng với
phạm vi là những vi phạm hợp đồng được dự đoán trước.
Về sách tham khảo, chuyên khảo, giáo trình, bình luận khoa học có thể kể
đến những công trình tiêu biểu sau:
- Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp
đồng trong pháp luật Việt Nam, Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Công trình nghiên cứu khoa học này đã trình bày một cách có hệ thống, khoa học, cụ
thể đối với từng biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng với những dẫn
chứng thực tiễn xét xử và đặt trong sự so sánh với pháp luật thế giới rất thuyết phục.
Riêng đối với biện pháp ĐPCD hợp đồng, tác giả đã phân tích thấy rằng cách điều
chỉnh trong pháp luật thực định còn nhiều điểm bất cập, tạo ra “lỗ hổng hay điểm
trống pháp lý” cần bổ sung. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích hệ quả của ĐPCD hợp
đồng, quyền ĐPCD hợp đồng khi một bên có nguy cơ không thực hiện hợp đồng.
- Đỗ Văn Đại (2014), Luật hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án
(tập 2), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây là công trình khoa học chuyên sâu
bình luận những bản án đã được công bố liên quan đến lĩnh vực hợp đồng. Qua
phân tích các quy định của BLDS năm 2005, đối chiếu với thực tiễn xét xử, so sánh
pháp luật, tác giả đã cho thấy những bất cập của BLDS hiện hành khi quy định về
điều kiện để ĐPCD hợp đồng và đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Đồng
thời, tác giả cũng đã đề cập đến phạm vi và hệ quả của chấm dứt hợp đồng, kết hợp
chấm dứt hợp đồng với biện pháp khác.
- Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. Tác giả tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý
luận và thực tiễn một số vấn đề cơ bản nhất về chế định hợp đồng. Tuy nhiên, công
trình chưa nghiên cứu sâu về biện pháp ĐPCD hợp đồng.
5
- Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự
năm 2005 (tập 2), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình tập trung bình luận
các điều luật quy định tại phần thứ ba của BLDS năm 2005: nghĩa vụ dân sự và hợp
đồng dân sự. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích về những căn cứ chấm
dứt hợp đồng trong quy định chung về hợp đồng, những trường hợp ĐPCD hợp
đồng dân sự thông dụng, giá trị của thông báo ĐPCD hợp đồng. Tuy nhiên, nội dung
cuốn sách mới chỉ dừng lại ở việc bình luận điều luật mà chưa nêu lên những bất
cập trong thực tiễn áp dụng cũng như định hướng hoàn thiện pháp luật.
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu đã đưa
ra tiêu chí phân biệt giữa ĐPCD hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng và hậu quả của việc
chấm dứt hợp đồng.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam
(tập 2), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. Giáo trình nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt
lý luận những vấn đề cơ bản nhất về chế định hợp đồng.
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình pháp luật
về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức- Hội Luật gia
Việt Nam. Chương IV của giáo trình đã nêu tổng quan khái luận về trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng, chấm dứt hợp đồng do vi phạm, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Trong phần chấm dứt hợp đồng, cuốn sách phân tích
quyền chấm dứt hợp đồng khi một bên vi phạm nghiêm trọng hợp đồng, thông báo
chấm dứt hợp đồng.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các Tạp chí: Tòa án, Kiểm sát, Khoa
học pháp lý, Luật học, Dân chủ và Pháp luật, Nhà nước và Pháp luật… và nhiều
công trình nghiên cứu khác cũng đã phân tích, làm rõ những bất cập, vướng mắc
trong quy định về ĐPCD hợp đồng; qua đó cũng đã đặt vấn đề đưa ra giải pháp kiến
nghị hoàn thiện pháp luật. Cụ thể:
- Đỗ Thành Công (2010), “Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng”,
đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý (04);
- Đỗ Văn Đại (2004), “Vấn đề hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng do bị vi phạm
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam”, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý (03);
6
- Đỗ Văn Đại (2010), “Điều kiện để chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng khi một bên
không thực hiện đúng hợp đồng”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật- Số chuyên đề
sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự (Phần liên quan đến Quyền sở hữu tài sản và hợp đồng);
- Nguyễn Minh Hằng, Nguyễn Thùy Trang (2011), “Một số vướng mắc từ
việc áp dụng chế định đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng”, đăng trên Tạp chí
Kiểm sát (06);
- Lê Minh Hùng (2013), “Nghiên cứu tổng quát về những bất cập và định
hướng hoàn thiện các quy định chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005”, Kỷ
yếu hội thảo quốc tế về sửa đổi Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 và kinh nghiệm
nước ngoài, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh- Hội Luật gia Việt Nam,
tổ chức ngày 04/10/2013;
- Nguyễn Quốc Vinh (2015), “Ba vấn đề về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong
Bộ luật Dân sự 2005: Kinh nghiệm nhìn từ Nhật Bản”, Kỷ yếu hội thảo “Hoàn thiện
Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)”, Trường Đại học Kinh tế- Luật Thành phố Hồ Chí
Minh- Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tổ chức ngày 24/4/2015.
Những cuốn sách và bài viết trên là những tài liệu vô cùng quý báu giúp tác
giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn. Nhìn
chung, các công trình nghiên cứu trên đều có đề cập đến các biện pháp do không
thực hiện đúng hợp đồng và chủ yếu tập trung nghiên cứu quy định về hủy bỏ hợp
đồng, ít đề cập đến ĐPCD hợp đồng; chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
có hệ thống từ việc phân tích căn cứ áp dụng quyền ĐPCD hợp đồng, nghĩa vụ của
bên có quyền ĐPCD hợp đồng, hậu quả pháp lý của việc hợp đồng bị ĐPCD, thủ
tục thực hiện việc ĐPCD hợp đồng.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ khái niệm, bản chất của ĐPCD
hợp đồng, sự cần thiết của việc áp dụng biện pháp ĐPCD hợp đồng, làm rõ sự giống
và khác nhau giữa ĐPCD hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng. Phân tích, làm rõ quy
định của BLDS năm 2005 về căn cứ áp dụng quyền ĐPCD hợp đồng, nghĩa vụ của
bên có quyền ĐPCD hợp đồng, hậu quả pháp lý của việc hợp đồng bị ĐPCD, thủ
tục thực hiện việc ĐPCD hợp đồng. Thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật, so sánh
với các văn bản luật trong nước cũng như pháp luật của nước ngoài có liên quan, đề
tài sẽ nêu lên những bất cập trong quy định của pháp luật thực định và đề xuất một
số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định về ĐPCD hợp đồng và những vấn đề có
liên quan trong BLDS năm 2005.
7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng các quy định về ĐPCD hợp đồng- với tư cách là một biện
pháp chế tài và là một căn cứ làm chấm dứt hợp đồng.
Nhiệm vụ cụ thể của đề tài: Trong phạm vi đề tài này, tác giả tập trung khai
thác một số vấn đề lý luận về ĐPCD hợp đồng. Đồng thời đối chiếu với thực tiễn áp
dụng, và so sánh pháp luật từ đó chỉ ra những hạn chế, thiếu sót của quy định pháp
luật về vấn đề này, qua đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện trong công
tác xây dựng pháp luật.
* Phạm vi nghiên cứu
- Văn bản pháp luật: Biện pháp ĐPCD hợp đồng đã được quy định cụ thể tại
Điều 426 BLDS năm 2005. Song, cả BLDS năm 2005 và LTM năm 2005 đều có
quy định về ĐPCD hợp đồng, là một biện pháp chế tài áp dụng đối với bên có hành
vi vi phạm hợp đồng. Do vậy, những quy định về đình chỉ hợp đồng trong LTM
năm 2005 cũng sẽ được phân tích nghiên cứu để có sự so sánh. Cũng với mục đích
đánh giá những mặt được và những thiếu sót trong quy định về ĐPCD hợp đồng của
BLDS năm 2005, tác giả có sự nghiên cứu, tham khảo pháp luật của một số quốc
gia, các văn bản pháp lý quốc tế về hợp đồng khi quy định về vấn đề này, như:
BLDS Pháp, BLDS Nhật Bản, BLDS Campuchia, Luật Hợp đồng Trung Quốc,
Công ước của Liên hiệp quốc năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
(Công ước Viên năm 1980), Bộ Nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại
quốc tế 2004 (Bộ Nguyên tắc Unidroit)…
- Lĩnh vực hợp đồng: Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn giới hạn phân tích
hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại mà không nghiên cứu về các hợp đồng
trong các lĩnh vực lao động.
- Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các quy định của pháp luật, đề
tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về ĐPCD hợp đồng ngay từ sau ngày
BLDS năm 2005 trở đi.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng đan xen các phương pháp phân
tích, diễn giải, tổng hợp, so sánh pháp luật, đánh giá thực tiễn.
8
Phương pháp so sánh pháp luật được sử dụng hầu như xuyên suốt trong luận
văn, dùng để so sánh những quy định của pháp luật về ĐPCD hợp đồng với hủy bỏ
hợp đồng trong BLDS năm 2005, so sánh những quy định tương đồng trong BLDS
Việt Nam về ĐPCD hợp đồng với LTM năm 2005, với pháp luật các nước được
đánh giá là tiến bộ, hiện đại, cũng như so sánh với quy định của các công ước quốc
tế, các bộ nguyên tắc pháp luật hợp đồng quốc tế được thừa nhận rộng rãi.
Các phương pháp phân tích, diễn giải và phương pháp tổng hợp được sử
dụng chủ yếu ở chương 1 khi đề cập đến các vấn đề cơ bản mang tính lý luận về
ĐPCD hợp đồng.
Trong chương 2, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp đánh giá thực tiễn,
đối chiếu với những gì đã phân tích ở chương 1 để làm rõ những vướng mắc của
pháp luật thực định, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
* Về mặt lý luận: Việc nghiên cứu đề tài góp phần làm sáng tỏ về phương
diện lý luận trong khoa học pháp lý về biện pháp ĐPCD hợp đồng, thông qua việc
làm rõ các khái niệm, đặc trưng, mục đích, phân loại ĐPCD hợp đồng, so sánh giữa
ĐPCD hợp đồng với hủy bỏ hợp đồng, căn cứ áp dụng quyền ĐPCD hợp đồng và
hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị ĐPCD hợp đồng giúp người đọc có cái nhìn tổng
quan về quy định ĐPCD hợp đồng trong BLDS năm 2005.
* Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn
đề ĐPCD hợp đồng, luận văn phân tích những điểm còn hạn chế, thiếu sót và bất
cập của pháp luật hiện hành giúp người đọc nhận thức được nhu cầu và sự cần thiết
trong việc định hướng hoàn thiện pháp luật. Đề tài đưa ra một số kiến nghị với
mong muốn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về ĐPCD hợp đồng ở
nước ta hiện nay. Luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm các tài liệu học tập
của sinh viên và là tài liệu tham khảo hữu ích cho các tổ chức, cá nhân đã, đang
hoặc sẽ tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng dân sự hoặc giải quyết các tranh
chấp liên quan đến việc ĐPCD hợp đồng.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Chương 2: Bất cập của quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng trong
BLDS năm 2005 và kiến nghị hoàn thiện.
9
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐƠN PHƯƠNG
CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
1.1. Khái quát về đơn phương chấm dứt hợp đồng
1.1.1. Khái niệm đơn phương chấm dứt hợp đồng
Trong cổ luật Việt Nam và pháp luật của các chế độ trước, những giao lưu
dân sự trong đời sống xã hội được các chủ thể xác lập dưới một hình thức pháp lý
để thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của mình được các nhà làm luật thời bấy
giờ quy định bởi các thuật ngữ như văn tự, giao kèo, văn khế, khế ước hay hiệp ước.
Tuy tên gọi có khác nhau nhưng bản chất của những giao dịch dân sự này là sự
thống nhất ý chí để chuyển giao các lợi ích giữa các chủ thể với nhau mà về sau
thuật ngữ pháp lý định danh là “hợp đồng”. Ở nước ta, chế định hợp đồng cho đến
thế kỷ XIX chưa thực sự tồn tại theo đúng nghĩa khoa học của từ ngữ. “Ngay trong
các bộ cổ luật được đánh giá là đỉnh cao của thành tựu lập pháp phong kiến như Bộ
luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long, khái niệm “hợp đồng” hoặc “khế ước” với tư
cách là một thuật ngữ độc lập và hoàn chỉnh hầu như không được biết tới”3
.
“Thuật ngữ “hợp đồng” chỉ mới được sử dụng chính thức trong pháp luật
Việt Nam hiện hành từ khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 và Pháp lệnh Hợp
đồng dân sự 1991 được ban hành”4
. Khái niệm “hợp đồng dân sự” được quy định
tại Điều 388 BLDS năm 2005 cũng như quy định trước đó tại Điều 394 BLDS năm
1995 là sự pháp điển hóa khái niệm “hợp đồng dân sự” của Pháp lệnh Hợp đồng
dân sự (PLHĐDS) năm 1991. Theo đó, “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”5
. Mỗi khi các
bên tự nguyện cam kết thỏa thuận tạo lập sự ràng buộc pháp lý làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của nhau đều phải chịu ảnh hưởng sự ràng
buộc của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng được đảm bảo bởi pháp luật. Hợp đồng
được giao kết hợp pháp có hiệu lực như pháp luật đối với các bên, phải được các
bên tuân thủ và thực hiện đúng, đầy đủ. Với việc thực hiện đúng các điều khoản hợp
đồng, các bên đã đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối ứng của nhau; mục đích mong
muốn mà các bên tìm kiếm từ hợp đồng đã đạt được. Tuy vậy, quá trình thực hiện
hợp đồng, nhiều khi lợi ích mà các bên hướng tới không diễn ra đúng như dự kiến
3 Nguyễn Ngọc Khánh (2006), “Chế định hợp đồng từ Luật La Mã đến Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Kiểm sát
(07), tr. 38- 39. 4 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 123. 5
Xem Điều 388 BLDS năm 2005.
10
ban đầu, nguyên nhân thông thường là do một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc
trong trường hợp ngoại lệ việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không mang lại lợi ích
cho một bên trong quan hệ hợp đồng. Trước những hoàn cảnh như vậy, pháp luật cho
phép một trong các bên được ĐPCD hợp đồng khi hợp đồng vẫn đang còn hiệu lực.
Đó gọi là quyền ĐPCD hợp đồng.
Trong pháp luật Việt Nam, ĐPCD hợp đồng chính thức tồn tại với tư cách là
một điều luật độc lập, đúng với tên gọi của nó kể từ PLHĐDS năm 1991 (Điều 29)
và sau này tiếp tục được ghi nhận trong BLDS năm 1995 (Điều 420) và BLDS năm
2005 (Điều 426). Song song với quy định về ĐPCD hợp đồng, LTM năm 2005
cũng có quy định về đình chỉ hợp đồng. Pháp luật của thời kỳ trước cũng đã có
những quy định cho phép một bên “bãi ước”, “tiêu hủy” do có sự vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng của bên kia; ví dụ: theo Điều 794 Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936, “khi
tại lỗi một bên mà hư hại hay mất một phần, thời bên kia có thể tùy ý thỉnh cầu hoặc
thi hành hiệp ước mà phải trả tiền bồi, hoặc bãi ước mà đòi tiền bồi thường”6
, hay
“Người bị thiệt có quyền bó buộc bên kia phải thi hành nghĩa vụ nếu có thể thi hành
được, hoặc xin tiêu hủy khế ước và bồi thường. Sự tiêu hủy do Tòa án xét định. Tòa
án có thể tùy trường hợp cho ân hạn để thi hành khế ước”7
.
Theo quy định tại Điều 424 BLDS năm 2005, ĐPCD hợp đồng là một trong
những trường hợp chấm dứt hợp đồng dân sự. Trong phần quy định chung về hợp
đồng, BLDS năm 2005 dành riêng Điều 426 quy định về ĐPCD hợp đồng, từ quy
định này có thể thấy rằng: ĐPCD hợp đồng là một trường hợp chấm dứt hợp đồng
dân sự xuất hiện khi một bên thực thi quyền ĐPCD hợp đồng mà các bên có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định.
Theo Viện Ngôn ngữ học, đơn phương được hiểu là “có tính chất của riêng
một bên, không có sự thỏa thuận hoặc sự tham gia của bên kia; phân biệt với song
phương”8
. Theo đó, ĐPCD hợp đồng có nghĩa là một bên tự mình ngừng thực hiện
hợp đồng mà không phụ thuộc vào ý chí của phía bên kia, sự đồng ý của bên kia là
không cần thiết, mọi thỏa thuận trong hợp đồng đều không còn ràng buộc, các bên
không phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Khoản 1 Điều 426 BLDS năm 2005 quy
định: “Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” và khoản 3 Điều này quy định: “Khi hợp
6 Xem thêm Nguyễn Thị Việt Hà (2010), Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng trong hoạt
động thương mại, Luận văn thạc sỹ luật học- Trường Đại học Luật Thành phố (TP.) Hồ Chí Minh, tr. 7. 7 Xem Điều 763 Bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972, Nxb. Thần Chung, Sài Gòn, 1973. 8 Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 470.