Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đổi mới chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
PREMIUM
Số trang
453
Kích thước
9.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1679

Đổi mới chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

BAN KHOA GIÁO TRUNG ƯƠNG

ĐỀ TÀI ĐỘC LẬP CẤP NHÀ NƯỚC

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI CẤP NHÀ NƯỚC

ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI

TRÍ THỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG THỜI KỲ

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Mã số đề tài: ĐTĐL – 2003/27

Chủ nhiệm: GS. TSKH. Nguyễn Hữu Tăng

6457

08/8/2007

Hà Nội, 4/2007

ii

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

P. I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH

ĐỐI VỚI TRÍ THỨC KHCN

5

1.1. Trí thức, đội ngũ trí thức và trí thức KH&CN 5

1.1.1. Trí thức 5

1.1.2. Đội ngũ trí thức 10

1.1.3. Sản phẩm của đội ngũ trí thức 11

1.1.4. Trí thức khoa học và công nghệ (KH&CN) 13

1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức và trí thức KH&CN Việt

Nam hiện nay

14

1.2.1. Một vài nét chủ yếu về đặc điểm trí tuệ con người Việt nam 15

1.2.2. Đặc điểm xã hội của trí thức 15

1.2.3. Đặc điểm về tôn giáo của trí thức 18

1.2.4. Đặc điểm về truyền thống văn hóa dân tộc của trí thức Việt Nam 21

1.2.5. Đặc điểm chuyên môn và học vấn của trí thức 23

1.2.6. Đặc điểm nghề nghiệp của trí thức 24

1.2.7. Đặc điểm phân bố trí thức theo các vùng lãnh thổ 25

1.2.8. Đặc điểm của các nhóm trí thức khoa học và công nghệ 25

1.3. Chính sách và chu trình chính sách 29

1.3.1. Chính sách 29

1.3.2. Chu trình chính sách 30

1.3.3. Chính sách đối với trí thức 32

1.3.4. Mục tiêu đổi mới chính sách đối với trí thức 34

1.4. Vai trò và trách nhiệm của trí thức KH&CN trong sự nghiệp

CNH, HĐH

35

1.4.1. Vai trò và trách nhiệm của trí thức 35

1.4.2. Vai trò trách nhiệm của đội ngũ trí thức KH&CN 38

1.5. Kinh nghiệm trong và ngoài nước về chính sách đối với trí

thức và trí thức KH&CN

41

iii

1.5.1. Kinh nghiệm về chính sách đối với trí thức và trí thức KH&CN

của nước ta

41

1.5.2. Kinh nghiệm về chính sách đối với trí thức KH&CN của một số

nước trên thế giới

50

1.5.2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc về chính sách đối với trí thức

KH&CN

50

1.5.2.2. Kinh nghiệm của các nước khác về chính sách đối với trí thức

KH&CN

59

1.5.3 Một số bài học kinh nghiệm của các nước đối với Việt Nam

P. II BỐI CẢNH KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ THỰC TRẠNG ĐỘI

NGŨ TRÍ THỨC KH&CN CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY

64

2.1. Bối cảnh kinh tế xã hội 64

2.1.1 Những thành tựu phát triển kinh tế-xã hội từ đổi mới đến nay 66

2.1.2. Những hạn chế của nền kinh tế hiện nay 72

2.1.3. Cấu trúc lực lượng lao động của Việt Nam 75

2.2. Thực trạng về trí thức KH&CN nước ta hiện nay 79

2.2.1. Cơ cấu của đội ngũ trí thức 82

2.2.2. Cơ cấu đội ngũ trí thức hình thành trong quá trình sử dụng 87

2.2.3. Về năng lực hoạt động nghề nghiệp của trí thức 99

2.3. Những đóng góp của trí thức KH&CN của nước ta trong

những năm qua

101

2.3.1. Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn 102

2.3.2. Trong lĩnh vực giáo dục 103

2.3.3. Trong lĩnh vực KHCN 103

2.3.4. Những hạn chế của trí thức nước ta hiện nay 107

P. III THỰC TRẠNG CÁC CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRÍ THỨC

KH&CN TỪ KHI ĐỔI MỚI ĐẾN NAY

113

3.1. Quan điểm và chủ trương của Đảng đối với đội ngũ trí thức

trong thời kỳ đổi mới

114

3.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước về KH&CN đến năm 2010 120

3.2.1. Mục tiêu phát triển KH&CN và đội ngũ trí thức KH&CN 121

3.2.2. Các giải pháp lớn về phát triển KH&CN từ nay đến năm 2010 122

iv

3.3. Thực trạng về các nhóm chính sách đối với trí thức KH&CN 124

3.3.1. Nhóm các chính sách đào tạo 124

3.3.2. Nhóm CS đào tạo lại, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức 137

3.3.3. Nhóm các chính sách sử dụng 142

3.3.4. Nhóm chính sách đãi ngộ, tôn vinh 154

3.3.5. Các chính sách thu hút sự giúp đỡ từ bên ngoài và trí thức người

Việt ở nước ngoài

155

3.4. Đánh giá tác động của chính sách đối với trí thức KH&CN 156

3.4.1. Tác động của các chính sách sắp xếp lại, kiện toàn hệ thống tổ

chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ

156

3.4.2. Tác động của các chính sách bố trí lại lực lượng nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ

156

3.4.3. Tác động của các chính sách đổi mới cơ chế quản lý hoạt động

KH&CN

163

3.4.4. Đánh giá về đóng góp của trí thức KH&CN 165

3.4.5. Các chính sách mở rộng nguồn vốn đầu tư hoạt động nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ

176

3.4.6. Các chính sách cải thiện môi trường và điều kiện nghiên cứu 179

3.4.7. Tạo lập thị trường KH&CN 179

3.4.8. Các chính sách tuyển dụng và sử dụng đội ngũ trí thức KH&CN 180

3.4.9. Các chính sách tôn vinh và chế độ đãi ngộ đối với các hoạt động

sáng tạo của người trí thức

183

3.4.10. Các chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài 186

3.4.11. Đánh giá về quá trình thực hiện chính sách 186

3.4.12. Kết luận 189

P. IV ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC

KH&CN TRONG GIAI ĐOẠN TỚI

193

4.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội đến năm 2020 và kế hoạch 5 năm 2006-2010

198

4.1.1. Bối cảnh kinh tế- xã hội trong thời gian tới 194

4.1.2. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 194

4.1.3. Mục tiêu phát triển đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu 197

v

HĐH, CNH

4.1.4. Huớng tới nền kinh tế trí thức 198

4.1.5. Chính sách đối với trí thức gắn với việc xây dựng nền kinh tế trí thức 201

4.2. Quan điểm, mục tiêu và nguyên tắc đề xuất giải pháp đổi

mới chính sách đối với trí thức KH&CN trong thời kỳ mới

203

4.2.1. Một số quan điểm đề xuất các giải pháp chính sách 204

4.2.2. Mục tiêu của việc đề xuất các giải pháp chính sách 204

4.2.3. Nguyên tắc của việc đề xuất các giải pháp chính sách 205

4.2.4. Những giải pháp tổng quát về chính sách đối với trí thức

KH&CN

206

4.3. Các nhóm giải pháp đổi mới chính sách đối với trí thức

KH&CN trong thời kỳ mới

210

4.3.1. Những yêu cầu đặt ra về đổi mới chính sách đối với trí thức

KH&CN trong tình hình hiện nay

210

4.3.2. Nhóm các chính sách phát triển đội ngũ trí thức KH&CN 212

4.3.3. Nhóm các giải pháp chính sách cải thiện điều kiện và môi trường

làm việc cho đội ngũ trí thức KH&CN

218

4.3.4 Các giải pháp chính sách đãi ngộ, tôn vinh, thu hút trí thức 237

4.4. Những điều kiện thực hiện chính sách đối với trí thức 247

P. V KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1. Kết luận 248

5.2. Kiến nghị 251

Danh mục tài liệu tham khảo 251+1

Danh mục phụ lục của đề tài 251+5

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNXH Chủ nghĩa xã hội

ĐH đại học

ĐH, CĐ Đại học, cao đẳng

ĐTN đào tạo nghề

ĐT Đào tạo

GCCN Giai cấp công nhân

GDPT Giáo dục phổ thông

GD & ĐT Giáo dục và đào tạo

KH&ĐT Kế hoạch và đầu tư

KHĐT Kế hoạch đầu tư

KHH Kế hoạch hoá

KH&CN khoa học và công nghệ

KH XH khoa học xã hội

KT - XH kinh tế - xã hội

KHTC kế hoạch tài chính

KTQD Kinh tế quốc dân

LĐKT Lao động kỹ thuật

NN Nhà nước

THCN Trung học chuyên nghiệp

THCS Trung học cơ sở

THPT Trung học phổ thông

QLGD Quản lý giáo dục

XHCN Xã hội chủ nghĩa

vii

DANH SÁCH THÀNH VIÊN ĐỀ TÀI

1 Chủ nhiệm đề tài

GS. TSKH Nguyễn Hữu Tăng

P. chủ tịch chuyên trách Liên hiệp các hội KHKT

Việt nam

2 Thư ký đề tài

TS. Phan Tùng Mậu PVT. Vụ KHTN, CN&MT, Ban KGTW

3 Thành viên đề tài

1 TS. Hồ Ngọc Luật VT Vụ KHTN, CN&MT, Ban KGTW

2 TS. Bùi Văn Hưng Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, VPTW Đảng

3 TS. Nguyễn Văn Ba P.Vụ trưởng Vụ KHXH, Ban KGTW

4 Ths. Nguyễn Đông Hanh Viện CL & CTGD, Bộ GD&ĐT

5 KS. Nguyễn Việt Hùng Viện CL & CTGD, Bộ GD&ĐT

6 TS. Nguyễn Quang PVT Vụ KHTN,CN&MT, Ban KGTW

7 TS. Trần Hồng Hà PVT Vụ KHTN,CN&MT,Ban KGTW

8 PGS.TS. Hồ Uy Liêm PCT, kiêm tổng TK Liên hiệp các hội KHKT VN

9 TS. Nguyễn Quân Vụ trưởng Vụ Tổ chức- Cán bộ, Bộ KHCN

10 TS. Lê Đình Tiến Viện trưởng Viện CL&CS KHCN, Bộ KH&CN

11 TS. Nguyễn Đình Minh Vụ trưởng vụ Khoa giáo VPCP

4. Cộng tác viên đề tài

1 GS.TSKH.Phạm Mạnh Hùng PTB, Ban Khoa giáo Trung ương

2 TS. Trần Ngọc Tăng PTB, Ban Khoa giáo Trung ương

3 PGS. TS. Nghiêm Đình Vỳ PTB, Ban Khoa giáo Trung ương

4 TS. Phạm Anh Tuấn Chánh văn phòng Ban KGTW

5 TS. Tạ Nguyên Ngọc Vụ trưởng, Uỷ ban người Việt nan ở nước ngoài

6 TS. Nguyễn Trọng Khanh Chánh văn phòng Liên hiệp hội

7 TS. Nguyễn Thị Anh Thu Trưởng ban, Viện CL&CS KHCN, Bộ KH&CN

8 TS. Hoàng Xuân Long Viện Chiến lược và chính sách KHCN, Bộ KH&CN

9 TS. Nguyễn Văn Thành Trưởng ban, Viện CLPT, Bộ KH & ĐT

10 TS. Nguyễn Văn Bách P. Văn phòng, Ban Khoa giáo Trung ương

11 GS. TS Hoàng Chí Bảo Hội đồng Lý luận Trung ương

1

Tên đề tài:

ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI

TRÍ THỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG THỜI KỲ

CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Mã số đề tài: ĐTĐL – 2003/27

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cần thiết nghiên cứu:

Sự phát triển của khoa học và công nghệ (KH&CN) trong thời đại ngày nay

đang tạo ra những biến đổi sâu sắc trong mọi mặt đời sống xã hội. Trong quá trình

đó, nguồn lực con người, đặc biệt là đội ngũ trí thức KH&CN ngày càng trở thành

nguồn lực chủ chốt nhất, đóng vai trò quyết định trong phát triển. Vấn đề chính

sách đối với trí thức KH&CN đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc

gia, vì thực chất đó là chiến lược tăng tốc phát triển.

Thực tế cho thấy, một quốc gia muốn có được những bước tiến nhảy vọt về

phát triển thì cần phải hội đủ một số yếu tố cơ bản như: tài nguyên thiên nhiên,

trình độ khoa học, môi trường chính trị - xã hội. Có tài nguyên thiên nhiên phong

phú đó là một lợi thế tiềm năng, nhưng nếu thiếu nguồn nhân lực có trình độ

KH&CN cao thì việc sử dụng tài nguyên chỉ ở mức tối giản về hiệu quả (khai thác

và sử dụng ở dạng thô, hàng hoá có giá trị thấp, không có tính cạnh tranh trong xuất

khẩu); tuy nhiên để có tầm vóc một nền kinh tế giàu tính trí tuệ thì mỗi quốc gia

phải tạo lập môi trường chính trị - xã hội ổn định, khuyến khích và khơi dậy được

tiềm năng con người. Nghĩa là, bằng cơ chế, chính sách nhà nước có thể tạo ra sự

giải phóng tối ưu trí tuệ cá nhân, hình thành một đội ngũ trí thức KH&CN ngày

càng đông về số lượng, cao về chất lượng làm hạt nhân cho nền kinh tế tri thức,

làm thay đổi về chất cho cơ cấu nguồn nhân lực của đất nước.

Thực tế cho thấy rằng, để hoàn thành công nghiệp hóa, các nước tư bản phát

triển trước đây phải mất hàng trăm năm, trong khi đó các nước công nghiệp mới chỉ

mất khoảng một phần ba thế kỷ nhờ tận dụng được lợi thế của các nước đi sau và

có chính sách đúng đối với đội ngũ trí thức KH&CN.

Đảng và Nhà nước ta luôn coi “con người là trung tâm, vừa là động lực vừa

là mục tiêu của sự phát triển”. Trong suốt quá trình phát triển đất nước, Đảng và

Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để phát triển giáo dục và đào tạo,

KH&CN, coi đó là quốc sách hàng đầu, coi “trí thức là tài sản quý” là nền tảng và

2

động lực để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ X

của Đảng tiếp tục khẳng định: "Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai

cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của

Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động

lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc"(1), quan điểm đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá

trình phát triển của cách mạng ở nước ta, liên tiếp được nêu trong Nghị quyết ở các

kỳ Đại hội Đảng V, VI, VII, VIII, IX và X.

Nước ta đang tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường. Việc

đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức KH&CN đang trở thành vấn đề cấp thiết. Nghị

quyết TƯ 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nêu rõ: “Muốn tiến

hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy

nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Nói cách

khác, muốn thực hiện CNH, HĐH ở nước ta trước hết phải có đội ngũ trí thức

KH&CN là lực lượng then chốt trong việc ứng dụng và phát tiển thành tựu

KH&CN vào thực tiễn cuộc sống.

Từ quan điểm đó, Đảng ta chủ trương tiếp tục xây dựng và ban hành những

chính sách nhằm "phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân

chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng

tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức

cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các hội

khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội"

(1a).

Có thể nói, đội ngũ trí thức KH&CN nước ta, về số lượng, có bước phát triển

nhanh chóng. Từ năm 1990 đến nay tốc độ phát triển bình quân hàng năm đạt trên

5%. Đến năm 2006 đội ngũ trí thức KH&CN nước ta đã có khoảng trên hai triệu

người; phân bố khắp các lĩnh vực kinh tế - xã hội (KT-XH), các địa phương với

những nhiệm vụ khác nhau: từ tham mưu cho lãnh đạo, thực hiện nghiên cứu khoa

học, cho đến trực tiếp chỉ đạo ứng dụng, chuyển giao công nghệ phát triển kinh tế -

xã hội ở nước ta.

Tuy nhiên, khi bước sang cơ chế thị trường việc đào tạo và sử dụng đội ngũ

trí thức KH&CN còn chưa gắn với nhu cầu phát triển của các lĩnh vực KT-XH.

1

và 1a. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành TW Đảng khóa X, Mục X. Phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc,

tiếp tục đổi mới phương hướng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân

3

Hiệu quả sử dụng trí thức KH&CN chưa cao. Các chính sách về sử dụng trí thức

KH&CN chậm đổi mới và kém hiệu lực, đặc biệt là khu vực kinh tế quốc doanh.

Gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức KH&CN ở

nước ta, trong đó có vấn đề đào tạo và sử dụng, song các công trình đó mới dừng

lại ở việc nghiên cứu lịch sử hình thành đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam thập kỷ

90, với các số liệu thiếu cập nhật và chính xác. Ngay các cơ quan quản lý nhà nước

cũng chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về thực trạng trí thức KH&CN, phân tích sự

phân bố đội ngũ trí thức KH&CN theo ngành, theo lĩnh vực kinh tế - xã hội, theo

địa phương và vùng lãnh thổ; chưa đánh giá hiệu quả của các chính sách đào tạo và

sử dụng đội ngũ trí thức KH&CN, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị

trường. Điều đó đẫn đến còn thiếu cơ sở khoa học trong việc phân tích, đánh giá

thực trạng các chính sách hiện hành đối với đội ngũ trí thức KH&CN và tạo cơ sở

khoa học để xây dựng hệ thống chính sách phát triển đội ngũ trí thức KH&CN đáp

ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.

Vì vậy, phân tích sâu sắc, đánh giá toàn diện và chính xác thực trạng đội

ngũ và chính sách đối với trí thức KH&CN, cũng như tổng kết kinh nghiệm thực

tiễn trong và ngoài nước, hình thành hệ thống các quan điểm mới, tạo cơ sở để xây

dựng hệ thống chính sách hợp lý, có hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường

định hướng XHCN ở nước ta là hết sức cần thiết. Do đó, việc nghiên cứu đề tài:

"Đổi mới chính sách đối với trí thức khoa học và công nghệ trong thời kỳ công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

2. Mục tiêu của đề tài:

- Phân tích và đánh giá thực trạng về chính sách đối với đội ngũ trí thức

KH&CN nước ta hiện nay (Chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ và các chính sách

khác).

- Đề xuất giải pháp về đổi mới chính sách đối với đội ngũ trí thức KH&CN

(Chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ và các chính sách khác) đáp ứng yêu cầu

CNH, HĐH đất nước, góp phần xây dựng một Nghị quyết của Đảng về chính sách

đối với trí thức KH&CN trong giai đoạn mới.

3. Phương pháp nghiên cứu:

a. Nghiên cứu lý luận: thu thập, phân tích, xử lý các thông tin, tư liệu; nghiên

cứu tổng hợp các tài liệu cơ sở lý luận trong và ngoài nước, hình thành các luận cứ

khoa học về chính sách đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức KH&CN đáp ứng yêu

4

cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta.

b. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: tổ chức nghiên cứu, đánh giá tổng kết

kinh nghiệm đào tạo, sử dụng và các chính sách khác nhằm phát huy vai trò đội

ngũ trí thức KH&CN đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH ở nước ta.

c. Áp dụng phương pháp chuyên gia: tiến hành lấy ý kiến chuyên gia; tổ chức

hội thảo khoa học, sử dụng các phương pháp “tấn công não”, thảo luận nhóm, v.v .

Đề tài đã tọa đàm trực tiếp với lãnh đạo và trí thức của 15 trường ĐH; 8 tỉnh

thành phố; 9 viện nghiên cứu, 7 doanh nghiệp và 2 bộ ngành về chính sách đối với

trí thức.

d. Điều tra - khảo sát bằng phiếu về thực trạng đội ngũ và chính sách đối với

trí thức KH&CN nước ta (số lượng, cơ cấu....); thăm dò về các giải pháp chính sách

sẽ thực hiện cho các đối tượng, lĩnh vực và vùng lãnh thổ.

Đề tài thiết kế 5 loại phiếu điều tra P0, P1, P2, P3, P4 (điều tra cán bộ tham

gia xây dựng và tổ chức thực thi chính sách đối trí thức ở bộ, ngành và địa phương;

cán bộ quản lý doanh nghiệp; trí thức là giáo viên và cán bộ nghiên cứu ở các

trường đại học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, cán bộ làm công tác khoa

giáo từ trung ương đến huyện trong cả nước, với tổng số phiếu của 5 loại phiếu là

trên 3.500 phiếu).

e. Khảo sát kinh nghiệm của Trung quốc và tài liệu của nhiều nước trên thế

giới về chính sách đối với trí thức (cán bộ KH&CN).

Nội dung báo cáo tổng hợp đề tài gồm các phần:

Phần mở đầu

I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách đối với trí thức KH&CN

II. Bối cảnh kinh tế-xã hội và thực trạng đội ngũ trí thức KH&CN của

nước ta hiện nay

III. Thực trạng các chính sách đối với trí thức KH&CN từ khi đổi mới

đến nay

IV. Đổi mới chính sách đối với đội ngũ trí thức KH&CN trong giai

đoạn mới

Kết luận và kiến nghị

5

PHẦN I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH

ĐỐI VỚI TRÍ THỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

1.1. TRÍ THỨC, ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VÀ TRÍ THỨC KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ

Ngày nay, cách mạng KH&CN đang phát triển như vũ bão, tạo nên những

biến đổi sâu sắc và từng bước làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội. Ở nước ta, đội

ngũ trí thức nói chung và trí thức KH&CN nói riêng có vai trò là lực lượng xung

kích, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH. Vì vậy, để xây dựng và phát triển đội ngũ

trí thức KH&CN, hệ thống chính sách phát huy vai trò của họ cần phải được quan

tâm đúng mức và kịp thời. Đó là cơ sở nâng cao nhận thức để mỗi người phải tự

rèn luyện cho mình năng lực trí tuệ sắc bén, có tư duy năng động, linh hoạt, đủ sức

giải quyết những vấn đề mà cuộc sống không ngừng đặt ra.

Ông cha ta đã từng đánh giá rằng, hiền tài là nguyên khí của quốc gia.

Nguyên khí mạnh thì quốc gia hưng thịnh, nguyên khí yếu thì quốc gia suy vong.

Người cầm quyền phải thường xuyên chăm lo phát triển, bồi dưỡng và trọng đãi

hiền tài, đó là điều hệ trọng không được sao nhãng. “Phi trí bất hưng” là một tổng

kết và cảnh báo có giá trị mãi mãi, gắn liền với tên tuổi của Lê Quý Đôn - nhà bác

học nổi tiếng của nước ta từ thế kỷ XVIII.

Trong những năm qua, mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng, luôn có những Hội nghị

Trung ương dành thời gian để bàn về sự phát triển của KH&CN - động lực cho sự

phát triển KT-XH và là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cơ sở cho CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Hội nghị

lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày

24/12/1996 đã chỉ rõ: "Muốn tiến hành CNH, HÐH thắng lợi phải phát triển mạnh

giáo dục, đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển

nhanh và bền vững". Điều này cũng có nghĩa, muốn thực hiện CNH, HÐH thắng

lợi cần phát huy tốt tiềm lực trí tuệ của đội ngũ trí thức KH&CN. Đây chính là điều

kiện để các thành tựu của KH&CN được đưa vào thực tiễn KT-XH một cách nhanh

chóng và vững chắc, làm nền tảng cho sự phát triển đất nước bền vững.

1.1.1. Trí thức

Trí thức là gì và thế nào được gọi là trí thức? Câu hỏi này đặt ra trong nhận thức

của mọi người, của xã hội, tưởng như bình thường, đơn giản nhưng thật ra lại chứa

6

đựng nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ để đạt tới một nhận thức chung, thống nhất.

Hiểu đúng về trí thức và vai trò của trí thức trong đời sống xã hội mới có thể đề ra

chính sách và giải pháp đúng để xây dựng đội ngũ và tạo động lực cho họ phát triển.

Nói về trí thức có nhiều định nghĩa khác nhau, song có thể hiểu “trí thức là

một phạm trù lịch sử. Mỗi nước có các khái niệm khác nhau. Trong các thời đại

khác nhau chức năng của trí thức cũng khác nhau…Người ta có thể chia trí thức

thành kỹ sư và quan chức, thành nhà phản biện xã hội, nhà luân lý học, nhà hoạt

động chính trị, nhà cách mạng...”

(2)

Khái niệm trí thức là một phạm trù lịch sử, nên nội hàm của nó có thể thay

đổi cùng với sự phát triển của xã hội. Mỗi người, mỗi nước và mỗi thời kỳ, tùy theo

cách nhìn nhận của cá nhân, của dân tộc và của thời đại đó mà có cách hiểu riêng

về trí thức (người/nhà trí thức). Vì thế nội hàm của khái niệm trí thức/nhà trí thức

luôn thay đổi theo cả không gian và thời gian. (xem khung 1).

Khung 1. Các cách định nghĩa khái niệm trí thức khác nhau ở một số nước

1/ Từ điển Bách khoa Liên xô (1985 do Prokhorov chủ biên): Trí thức là tầng lớp

những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, phát triển và truyền bá văn hóa.

2/ Từ điển bách khoa triết học (tiếng Nga 1983): trí thức là tầng lớp những người

làm nghề lao động trí óc và thường có học vấn tương ứng, có chức năng sáng tạo, phát

triển và phổ biến văn hóa.

3/ Bách khoa toàn thư Pháp (tập X): Trí thức là một phạm trù lịch sử. Trong các

nước khác nhau khái niệm trí thức có khác nhau. Trong các thời đại khác nhau chức năng

của trí thức cũng khác nhau.… Người ta có thể chia trí thức thành kỹ sư và quan chức,

thành nhà phản biện xã hội, nhà luân lý học, nhà hoạt động chính trị, nhà cách mạng.

4/ Từ điển Wikipedia: Trí thức là người sử dụng trí tuệ để làm việc, nghiên cứu,

phản ánh, dự đoán hoặc để hỏi và trả lời các câu hỏi có liên quan về hàng loạt những ý

tưởng khác nhau.

5/ Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tri thức là gỉ?: Tri thức là hiểu biết. Trong thế giới

chỉ có hai thứ hiểu biết: một là sự hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do

đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc, tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà

ra. Ngoài hai cái đó không có trí thức nào khác.

Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày

ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói

tóm lại công việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của

y là trí thức học sách, chưa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức

hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”.

2

Bách khoa toàn thư Pháp - tập X

7

Mặc dù có rất nhiều sự khác nhau trong cách diễn đạt khái niệm trí thức, tuy

nhiên, nét chung nhất nổi bật lên ở khái niệm này là hai điểm:

- Trí thức là người có học vấn cao;

- Trí thức là những người làm công việc trí óc có sáng tạo và truyền bá những

hiểu biết và sáng tạo của minh đem lại lợi ích cho xã hội.

Ở nước ta, trong đời sống thường ngày, từ vựng “trí thức” được sử dụng

thông thường trong tiếng Việt rất gần gũi, quen thuộc, nhưng đó là một khái niệm

khoa học với những hàm nghĩa khác nhau. Nghiên cứu về trí thức là nghiên cứu

một đối tượng đặc thù trong cơ cấu xã hội gắn liền với những phương thức lao

động, bản chất xã hội và những đặc điểm hình thành, phát triển của trí thức như

một cá thể - chủ thể mang nhân cách sáng tạo, như một tầng lớp, một nhóm xã hội

- nghề nghiệp và như một cộng đồng trong quan hệ với xã hội và nhà nước, với dân

tộc và giai cấp, với truyền thống và hiện đại.

Nói tới trí thức là nói tới con người tự biểu hiện mình trước hết ở sự hiểu

biết, ở nhu cầu tự nhận thức, có niềm tin khoa học, hoài nghi để mà tin, nghĩa là

niềm tin dựa trên hiểu biết với tinh thần phê phán và tự phê phán, không tin bất cứ

một cái gì mà không trải qua lao động nhận thức, phân tích khoa học, khảo duyệt

trong thực tiễn, qua những thực chứng và cả những sự trải nghiệm bản thân hoặc

lĩnh hội từ kinh nghiệm của cuộc sống. Do vậy, người trí thức chân chính phải là

người luôn trọng sự thật, chân lý và đạo lý, không nhận thức theo cảm tính, theo

tâm lý số đông, không tin một cách dễ dãi, không tự lừa dối chính mình vì kém

hiểu biết, phù phiếm, sĩ diện, hư danh hoặc tệ hại hơn do xu thời và cơ hội chủ

nghĩa, tự đánh mất mình, tự tha hoá nhân cách.

Bởi vậy, bản chất của trí thức là gắn bó sự nghiệp lao động sáng tạo của

mình một cách tự nhiên, mật thiết với nhân dân và dân tộc. Cái gọi là “chuyên môn

thuần tuý”, sống cô độc trong tháp ngà, xa lánh cuộc đời, bất cần chính trị là điều

không thể và xa lạ với người trí thức chân chính. Trí thức do có trình độ hiểu biết

và đầu óc duy lý nên phải hiểu rõ xu thế vận động của lịch sử, nhạy cảm và mẫn

cảm với thời đại và thời cuộc mà mình đang sống.

Nói tới trí thức là nói tới nhu cầu về thông tin, giao tiếp và đối thoại văn hoá

gắn liền với môi trường xã hội - nhân văn, từ một cộng đồng nhỏ như một tập thể

lao động nghiên cứu, sáng tác, tư duy trừu tượng, biểu diễn, một hoạt động chuyên

môn hoá cao đến đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc, quốc tế và nhân loại. Với

trí thức, lao động không phải là gánh nặng mưu sinh, vì miếng cơm, manh áo của

8

tồn tại, mà là nhu cầu tự biểu hiện và tự khẳng định mình trong hoạt động sống.

Say mê, tận tuỵ và tâm huyết với công việc - thái độ lao động đó của người trí thức

là năng lực tự ý thức của họ về trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận đối với xã hội. Đó

là lòng tự trọng với mình và tôn trọng với người, với cuộc sống. Lười biếng, cẩu

thả, vô trách nhiệm là xa lạ với hoạt động và phẩm giá của người trí thức. Nói đến

trí thức là nói đến hoạt động của họ gắn liền với lao động trí óc và đời sống. Và

nghề nghiệp của trí thức đòi hỏi phải thường xuyên sáng tạo ra những cái mới, tiến

bộ, văn minh và văn hoá. Từ những điều trình bày trên đây có thể rút ra một vài

nhận xét khái quát về trí thức:

Thứ nhất, trí thức là người có hiểu biết rộng và sâu, có năng lực sáng tạo, có

trình độ phát triển cao về trí tuệ, làm việc bằng trí óc, nhạy bén với cái mới và đổi

mới để phát triển.

Thứ hai, học vấn, học thức của người trí thức được gây dựng qua đào tạo,

được bồi dưỡng và phát triển không ngừng bằng con đường tự đào tạo, tự trau dồi

và hoàn thiện của cá nhân trong lao động và hoạt động sáng tạo.

Thứ ba, trí thức có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và hướng tới các giá trị

tinh thần, trọng sự thật, chân lý và đạo lý. Trí thức là người có cá tính sáng tạo, có

lòng tự trọng cao, có đầu óc duy lý và phê phán để khẳng định cái tôi - cá thể, đồng

thời gắn bó với cộng đồng, phụng sự nhân dân và dân tộc.

Thứ tư, khát vọng tự do, dân chủ, đấu tranh cho lẽ phải và sự công bằng là sự

nổi trội trong nhân cách trí thức sáng tạo.

Thứ năm, trí thức thể hiện lý tưởng chính trị và trách nhiệm xã hội của mình

thông qua hoạt động nghề nghiệp, qua hoạt động chuyên môn đặc thù. Ngọn nguồn

sâu xa của sức mạnh sáng tạo và phát triển tài năng trí thức là thực tiễn cuộc sống,

là sự gắn bó sâu nặng với Tổ quốc và nhân dân, là tình cảm yêu nước và tinh thần

dân tộc.

Tóm lại, trong quan niệm thông thường, trí thức được hiểu là những người

lao động sáng tạo (lao động chủ yếu bằng trí óc) với trình độ nghề nghiệp chuyên

môn nhất định, người có trình độ học vấn cao, được đào tạo trong nhà trường, có

bằng cấp và vươn lên trong thực tiễn cuộc sống (có trình độ đại học và tương

đương trở lên)

3

, trọng nhân nghĩa, sự thật và chân lý và là người hết lòng truyền

3 Đó là những người có trình độ đại học (có bằng) và những người có trình độ tương đương trình độ đại học

nhưng không có bằng, họ học từ thực tiễn cuộc sống. Trong thực tế, học vấn, học thức cao lại gắn với những trình

độ, cấp độ khác nhau. Con đường và phương thức đạt tới học vấn, học thức cao lại có thể qua đào tạo ở nhà trường,

là kết quả của một nền giáo dục nhất định nhưng cũng có thể chỉ bằng con đường tự học, không qua trường, lớp nào.

Những đối tượng thụ hưởng giáo dục ấy, khi đã thành sản phẩm, họ có trở thành trí thức hay không, đặc biệt là

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!