Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đối chiếu nhóm động từ thuộc trường nghĩa "ăn" trong tiếng việt và các yếu tố tương đương trong tiếng anh.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
LÊ THỊ THANH TÂM
ĐỐI CHIẾU NHÓM ĐỘNG TỪ
THUỘC TRƯỜNG NGHĨA “ĂN” TRONG
TIẾNG VIỆT VÀ CÁC YẾU TỐ TƯƠNG
ĐƯƠNG TRONG TIẾNG ANH
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40
TÓM TẮT
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng – Năm 2015
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngũ Thiện Hùng
Phản biện 1: PGS.TS. Trương Thị Diễm
Phản biện 2: PGS.TS. Võ Xuân Hào
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn
tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn họp tại
Đại Học Đà Nẵng vào ngày 26 tháng 07 năm 2015.
Có thể tìm hiểu Luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với danh từ, động từ là thực từ cơ bản, tiêu biểu trong hệ
thống từ loại tiếng Việt cũng như tiếng Anh. Đồng thời, động từ
được coi là vị từ hoàn chỉnh về nội dung và cấu trúc để tạo nên câu
trọn vẹn, đầy đủ hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ. Trong hệ thống
từ vựng tiếng Việt và tiếng Anh, động từ chiếm số lượng lớn, được
sử dụng với tần số rất cao trong đời sống sinh hoạt hàng ngày bởi nó
gắn liền với các hoạt động, trạng thái, cảm xúc của con người.
Từ “ăn” được coi là một động từ tiêu biểu như vậy, vì nó
được xếp vào nhóm từ chỉ hoạt động cơ bản của con người. Đây là
hoạt động chủ đạo, có ý nghĩa quan trọng và quyết định sự tồn tại
của con người.
Trong tiếng Việt, không chỉ có từ “ăn” mà còn có rất nhiều từ
khác được dùng để diễn tả hành động “ăn” tùy thuộc vào từng ngữ
cảnh nhất định như: đớp, táp, xực, xơi, nuốt, gặm v.v….Trong tiếng
Anh cũng tương tự như vậy. Việc đối chiếu nhóm động từ thuộc
trường nghĩa “ăn” trong tiếng Việt và các yếu tố tương đương trong
tiếng Anh không nằm ngoài mục đích làm rõ những đặc điểm ngữ
nghĩa, ngữ dụng, khả năng kết hợp, nguyên tắc hoạt động của nó
trong mỗi ngôn ngữ, qua đó rút ra một số nhận xét về sự giống và
khác nhau giữa hai ngôn ngữ.
Chính vì những lí do trên, tôi quyết định chọn đề tài sau để
nghiên cứu: “Đối chiếu nhóm động từ thuộc trường nghĩa “ăn”
trong tiếng Việt và các yếu tố tương đương trong tiếng Anh”.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát và đối chiếu chuyển dịch những đặc điểm ngữ nghĩa,
ngữ dụng của nhóm động từ thuộc trường nghĩa “ăn” trong tiếng
Việt và các yếu tố tương đương trong tiếng Anh.
Chỉ ra được những điểm giống và khác nhau trong việc sử
dụng nhóm động từ thuộc trường nghĩa “ăn” trong tiếng Việt và các
yếu tố tương đương trong tiếng Anh.
Đưa ra những gợi ý giúp học tốt nhóm động từ thuộc trường
nghĩa “ăn” trong hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Anh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ
dụng của nhóm động từ thuộc trường nghĩa “ăn” trong tiếng Việt và các
yếu tố tương đương trong tiếng Anh; các điểm giống và khác nhau về
đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của nhóm động từ thuộc trường nghĩa
“ăn” trong tiếng Việt và các yếu tố tương đương trong tiếng Anh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn, luận văn chỉ tập trung khảo sát nhóm
động từ thuộc trường nghĩa “ăn” trong tiếng Việt. Đó là những từ
đồng nghĩa với động từ “ăn” và chúng tôi tiến hành nghiên cứu
trường nghĩa này theo 2 phương diện: Phương diện ngữ nghĩa và
phương diện ngữ dụng, phương diện cú pháp ít được đề cập đến.
Sau đó, từ những đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ dụng của các động từ
thuộc trường nghĩa “ăn”, chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu để
rút ra những điểm giống và khác nhau.
3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
- Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam, Đoàn Giỏi, Nxb Kim Đồng.
- Tiểu thuyết Lều chõng, Ngô Tất Tố, Nxb Văn học.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết được nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, chúng tôi sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại;
- Phương pháp phân tích, miêu tả;
- Phương pháp đối chiếu
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn
được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận liên quan đến đề tài
Chương 2: Đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng của nhóm động từ
thuộc trường nghĩa “ăn” trong tiếng Việt
Chương 3: Đối chiếu nhóm động từ thuộc trường nghĩa “ăn”
trong tiếng Việt và các yếu tố tương đương trong tiếng Anh
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Trong các chức năng sinh lý cơ thể giúp nuôi sống con người
để tồn tại và sinh sôi trên mặt đất này, ăn uống có lẽ chiếm địa vị
quan yếu hàng đầu. Không ăn uống con người không thể sống. Thở
cũng quan trọng, có khi còn hơn cả ăn uống, vì người ta có thể nhịn
ăn nhiều ngày, nhưng nhịn thở chỉ được vài phút. Tuy nhiên, tạo hóa
dường như đã sắp đặt để cho con người một nguồn cung cấp gần như
4
vô tận về khí trời và nước uống mà không cần phải trả giá hay chỉ trả
giá rất ít. Duy chỉ có miếng ăn là con người phải vất vả lao động hay
đấu tranh mới có. Thành thử, kể từ thuở còn “ăn lông ở lỗ”, mối quan
tâm thường trực của xã hội loài người bao giờ cũng là miếng ăn, và
dưới bất cứ hình thức văn minh, kỹ thuật nào, dù là lượm hái, săn
bắt, nông nghiệp, hay kỹ nghệ, hoạt động căn bản của con người
trước hết bao giờ cũng hướng vào mục đích kiếm ăn.
Vì tính cách quan yếu và cơ bản của nó đối với đời sống con
người từ thuở ban sơ, “ăn” chắc hẳn phải là một trong những ý niệm
đầu tiên có mặt trong sự hình thành của ngôn ngữ khi con người bắt
đầu sống quần tụ và có nhu cầu trao đổi, tìm hiểu nhau.
Có lẽ rất ít người Việt chúng ta để ý đến sự kiện “ăn” là một từ
bao hàm nhiều nghĩa nhất và cũng được sử dụng nhiều hơn cả trong
sự cấu thành các từ ngữ, thành ngữ hay tục ngữ có liên quan hay
không đến ăn, hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là bỏ thức ăn vào miệng,
nhai và nuốt. Các văn liệu phổ thông hiện đại mà ta có đã chứng
minh sự kiện này. “Việt Nam Từ Điển” của hội Khai Trí Tiến Đức
xuất bản tại Hà Nội năm 1930 - một công trình sưu tập có giá trị lịch
sử về ngữ vựng tiếng Việt - đã liệt kê 12 nghĩa khác nhau của từ “ăn”
và hàng trăm thí dụ văn liệu có liên hệ với “ăn” trong hơn năm trang.
Các từ điển tiếng Việt khác, như của Đào Văn Tập hay Nguyễn Văn
Khôn, cũng dành một số trang đáng kể cho từ “ăn”. Gần đây, cuốn
“Từ Điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học Hà Nội cũng đã minh
họa vị trí ưu thế của từ “ăn” qua 12 nghĩa khác nhau của từ này và
liệt kê những từ ngữ và thành ngữ hiện đại có liên quan đến “ăn” trên
5
bốn trang giấy. Sau hết, cuốn “Tục Ngữ Phong Dao” (1 và 2) của Ôn
Như Nguyễn Văn Ngọc – một nổ lực sưu tập coi như đầy đủ nhất từ
xưa đến nay – đã liệt kê gần 200 tục ngữ và ca dao bắt đầu bằng
tiếng “ăn”, và nếu ta kể cả những ca dao hay tục ngữ khác có tiếng
“ăn” ở trong thì thật không ngờ tổng số lại lên tới gần một phần
mười của tất cả cái kho tàng văn học dân gian này.
Công trình “Ăn, uống, nói, cười và khóc” của Trần Huiền Ân,
tác giả đã nêu lên những việc con người phải làm để sống, sống với
nghĩa hẹp là không chết và nghĩa rộng là tồn tại trong xã hội. Tác giả
đã cắt nghĩa và gợi mở nhiều điều thú vị về các biểu hiện trong ăn,
uống, nói, cười và khóc của người Việt từ kho tàng ca dao tục ngữ
Việt Nam. Những lời ăn tiếng nói này vô cùng phong phú và phản
ánh văn hóa xã hội của người Việt trong giai đoạn trước đây. Đến
nay, khi xã hội đã văn minh và phát triển hơn thì ca dao tục ngữ trở
thành những câu cửa miệng truyền đời để giáo dục con người sống
có khuôn phép, lễ nghĩa hoặc tiếp thu những kinh nghiệm để lại.
Tác giả Dương Cường với bài phiếm luận “Nghĩ về chữ… ăn”
thì lại viết về chữ “ăn” như là một sự huyền diệu khi mà trong đời
sống của con người không thể nào lại thiếu được “ăn”. Hay “Ăn”
trong văn hóa Việt của tác giả Lê Phước An lại nói về những nét văn
hóa của người Việt dựa vào ngữ nghĩa của động từ “ăn”.
Trong bài viết “Ăn - một từ kì thú” tác giả Nguyễn Đức Dân
cho rằng “Ăn là một từ cơ bản và có trong ngôn ngữ của mọi dân tộc.
Từ ăn trong tiếng Việt cực kì lý thú, phản ánh quá trình nhận thức
đặc biệt của người Việt về hiện tượng ăn”. Bên cạnh đó tác giả còn
6
phân tích những từ ghép “ăn + X” trong tiếng Việt, đây sẽ là cơ sở để
luận văn chỉ ra điểm khác nhau khi đối chiếu động từ ăn trong tiếng
Việt và các chuyển dịch tương đương tiếng Anh.
Cũng liên quan đến động từ ăn, tiểu luận đối chiếu động từ
ăn trong tiếng Việt và tiếng Anh, tác giả chỉ tiến hành so sánh đối
chiếu trên ba động từ eat, have và ăn. Hay trong luận văn Verbs
denoting the concept of “Eating” (English versus Vietnamese),
Trương Thị Huệ cũng so sánh đối chiếu nhóm động từ “ăn” từ Anh
sang Việt trên bình diện cú pháp và ngữ nghĩa để làm sáng tỏ những
điểm giống và khác nhau của hai ngôn ngữ.
Từ những công trình nói trên, luận văn sẽ tiếp tục so sánh đối
chiếu với những yếu tố tương đương của động từ “ăn” trong tiếng
Anh và bổ sung thêm phần ý nghĩa ngữ dụng.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. KHÁI NIỆM ĐỘNG TỪ
Về đại thể, động từ được xếp vào số các thực từ, thực ra không
phải tất cả các động từ đều là thực từ. Mức độ thực/hư của lớp động
từ khá phức tạp, có khi lệ thuộc vào trường hợp sử dụng cụ thể. Theo
các tiêu chuẩn định loại, động từ có ý nghĩa quá trình hiểu rộng (bao
gồm quá trình động, quá trình tĩnh, quá trình quan hệ) được dùng làm
tên gọi các “quá trình” đó. Động từ có thể kết hợp về phía trước với
các phó từ (tình thái từ) chỉ tính thời gian như đã, đang, sẽ, vừa, tính
phân cực như không, tính liên nhân như hãy, đừng, chớ; kết hợp về
phía sau với phó từ chỉ tính thời gian rồi, với phó từ chỉ những tính
tình thái khác nhau như được, mất, phải. Chức năng cú pháp chính
của động từ là làm vị ngữ trong câu. Cũng như danh từ, động từ có
khả năng đảm nhận nhiều chức năng cú pháp khác nhau. Nhưng chức
năng phổ biến và quan trọng nhất là làm vị ngữ trong cấu tạo câu, có
vị trí trực tiếp đứng sau bổ ngữ. Do đó chức năng vị ngữ của động từ
làm thành một tiêu chuẩn đối lập động từ và danh từ trong tiếng Việt.
1.2. PHÂN LOẠI ĐỘNG TỪ
Động từ là một lớp từ lớn và đa dạng về ý nghĩa, cho nên có
thể phân chia theo những phương diện khác nhau. Theo Bài giảng
ngữ pháp tiếng Việt (2003) của Trương Thị Diễm, đối với tiếng Việt,
về mặt ngữ pháp, động từ được phân loại thành các nhóm sau:
+ Nhóm động từ không tác động đến đối tượng (nội động từ)
8
+ Nhóm động từ tác động đến đối tượng (ngoại động từ)
+ Nhóm động từ trao nhận
+ Nhóm động từ gây khiến
+ Nhóm động từ chuyển động
+ Nhóm động từ tồn tại hoặc tiêu biến
+ Nhóm động từ chỉ quan hệ so sánh, đối chiếu
+ Nhóm động từ chỉ quan hệ diễn biến theo thời gian
+ Nhóm động từ chỉ quan hệ diễn biến trong không gian
+ Nhóm động từ biến hóa
+ Nhóm động từ tình thái
+ Nhóm động từ trạng thái tâm lí
+ Nhóm động từ cảm nghĩ, nói năng
1.3. TỪ ĐỒNG NGHĨA
1.3.1. Bản chất hiện tượng đồng nghĩa
1.3.2. Phân loại các từ đồng nghĩa
a. Từ đồng nghĩa tuyệt đối
b. Từ đồng nghĩa sắc thái
c. Từ đồng nghĩa biểu niệm
9
1.4. Ý NGHĨA BIỂU NIỆM, BIỂU THÁI
1.4.1. Ý nghĩa biểu niệm
Ý nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa
chung và riêng, khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất
định. Giữa các nét nghĩa có những quan hệ nhất định. Tập hợp này
ứng với một hoặc một số ý nghĩa biểu vật của từ. Tập hợp các nét
nghĩa phạm trù, khái quát chung cho nhiều từ được gọi là cấu trúc
biểu niệm.
1.4.2. Ý nghĩa biểu thái
Thuộc phạm vi ý nghĩa biểu thái của từ là những nhân tố đánh
giá như to, nhỏ, mạnh, yếu…, nhân tố cảm xúc như dễ chịu, khó chịu,
sợ hãi…, nhân tố thái độ như trọng, khinh, yêu, ghét… mà từ gợi ra
cho người nói và người nghe.
1.5. TRƯỜNG NGHĨA
1.5.1. Khái niệm trường nghĩa
Phạm vi những đơn vị từ vựng có quan hệ lẫn nhau về ý nghĩa,
trong đó, đơn vị từ vựng có thể là một từ vị hay một đơn vị thành
ngữ. Các đơn vị từ vựng trong một trường nghĩa phải có chung một
thành tố nghĩa. Sự phân tích các trường nghĩa sẽ bắt đầu sau khi phân
xuất được chúng. Người ta đã nghiên cứu các trường nghĩa như:
quan hệ thân tộc, màu sắc, bộ phận thân thể, động vật... Trong trường
nghĩa, ý nghĩa của mỗi đơn vị từ vựng được xác định trong mối quan
hệ với những đơn vị từ vựng khác cũng thuộc trường ấy.
10
1.5.2. Các trường nghĩa
a. Trường nghĩa biểu vật
Một trường nghĩa biểu vật là một tập hợp những từ đồng nghĩa
về ý nghĩa biểu vật. Để có những căn cứ dựa vào đó mà đưa ra các
nghĩa biểu vật của các từ về trường biểu vật thích hợp, chúng ta chọn
các danh từ làm gốc. Các danh từ này phải có tính khái quát cao, gần
như là tên gọi của các phạm trù biểu vật, như người, động vật, thực
vật, vật thể, chất liệu… Các danh từ này cũng là tên gọi các nét nghĩa
có tác dụng hạn chế ý nghĩa của từ về mặt biểu vật, là những nét
nghĩa cụ thể, thu hẹp ý nghĩa của từ. Như vậy, chúng ta sẽ đưa một
từ vào một trường biểu vật nào đó khi nét nghĩa biểu vật của nó trùng
với tên gọi của danh từ trên.
b. Trường nghĩa biểu niệm
Căn cứ để phân lập các trường biểu niệm là các ý nghĩa biểu
niệm của từ, cấu trúc biểu niệm không chỉ riêng cho từng từ mà
chung cho nhiều từ. Như vậy, một trường biểu niệm là một tập hợp
các từ có chung một cấu trúc biểu niệm. Cũng như các trường biểu
vật, các trường biểu niệm lớn có thể phân chia thành các trường nhỏ
và cũng có những “miền” với mật độ khác nhau. Do có hiện tượng
nhiều nghĩa biểu niệm, cho nên một từ có thể đi vào những trường
biểu niệm (hay đi vào những trường nhỏ) khác nhau. Vì vậy, cũng
giống như các trường biểu vật, các trường biểu niệm có thể giao thoa
với nhau, thẩm thấu vào nhau và cũng có lõi trung tâm với các từ
điển hình và những từ ở những lớp kế cận trung tâm, những từ ở lớp
ngoại vi. Nói tóm lại, vì các ý nghĩa biểu niệm tuy có nguồn gốc ở