Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Điều tra thực trạng sử dụng lao động đã qua đào tạo nghề trong thanh niên dân tộc thiểu số nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao đào tạo nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số giai đoạn CNH-HĐH
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
UỶ BAN DÂN TỘC
BÁO CÁO TỔNG KẾT DỰ ÁN
ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
ĐÃ QUA ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG THANH NIÊN DÂN TỘC
THIỂU SỐ NHẰM ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO THANH NIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ
GIAI ĐOẠN CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Chủ nhiệm đề tài: KS. Võ Văn Bảy
Thư ký đề tài: Ths. Phạm Thị Thuý Hà
7475
05/9/2009
HÀ NỘI – 2008
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA DỰ ÁN
Dạy nghề cho thanh niên là một chủ trương lớn, là một nhiệm vụ có
tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng cho
phát triển kinh tế-xã hội và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta tiến lên ngang tầm các nước tiên
tiến trên thế giới và khu vực. Do tính chất quan trọng và cấp thiết của công
tác dạy nghề cho thanh niên, ngày 29 tháng 11 năm 2006 Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI đã thông qua Luật dạy nghề.
Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng nhất cho việc phát triển công tác dạy
nghề đồng bộ, thống nhất để từng bước phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng
tốt các yêu cầu phát triển đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Mục tiêu của dạy nghề là đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật trực tiếp
cho sản xuất, có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo,
có đạo đức nghề nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật cao và tác phong công
nghiệp... nhằm tạo điều kiện cho người học nghề có khả năng tự tạo được
việc làm hoặc tìm kiếm được việc làm trên thị trường lao động, góp phần
thực hiện mục tiêu đến năm 2010 cả nước có 40% lao động đã qua đào tạo,
trong đó có 26% lao động đã qua dạy nghề và chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tháng 7 năm 2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam đã thông qua nghị quyết về phát triển nông nghiệp, nông dân và nông
thôn (Tam nông). Theo đó, vấn đề đào tạo chuyên môn kỹ thuật sản xuất
nông nghiệp, đào tạo nghề cho người lao động trong nông nghiệp, nông
thôn, nhất là ở các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc được xác định là
quốc sách hàng đầu, là nhiệm vụ chiến lược cả trước mắt và lâu dài nhằm
phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc.
Theo báo cáo gần đây của Bộ Lao động, TB&XH, tính đến cuối năm
2007 cả nước có 55 trường Cao đẳng, 170 trường Trung cấp nghề đã dạy
nghề cho 1.436.500 người (trong đó cao đẳng nghề 29.500 người; Trung
cấp nghề 151.000 người; dạy nghề dài hạn 125.000 người; sơ cấp nghề, dạy
nghề ngắn hạn và dạy nghề thường xuyên 1.131.000 người). Tuy nhiên,
những con số này không phản ánh được số lượng người DTTS, nhất là lực
lượng lao động thanh niên dân tộc đã qua đào tạo nghề và được sử dụng
sau đào tạo nghề.
Những năm gần đây, trong nước đã có một số nghiên cứu về tình
hình sử dụng nguồn nhân lực nhưng các nghiên cứu này mới chỉ tập trung
giải quyết một số mục tiêu như: Đánh giá quá trình chuyển đổi cơ cấu lao
động trong nông nghiệp, nông thôn; Đánh giá tình hình việc làm và thu
2
nhập của lao động nông thôn; Đánh giá tình hình di cư lao động từ nông
thôn ra thành thị, đánh giá về công tác đào tạo nghề phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá... Cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu
nào về tình hình đào tạo nghề cho thanh niên DTTS và sử dụng lao động
thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề, nhất là ở vùng TDMNPB, vùng Tây
Nguyên và vùng ĐBSCL là những vùng có nhiều đồng bào DTTS sinh
sống. Do vậy, công tác hoạch định chiến lược và xây dựng chính sách đào
tạo cũng như sử dụng lao động là thanh niên DTTS đã qua đào tạo gặp
những khó khăn nhất định về thông tin và luận cứ khoa học.
Đào tạo nghề cho thanh niên DTTS và sử dụng có hiệu quả lao động
thanh niên là DTTS đã qua đào tạo là vấn đề có ý nghĩa rất lớn, một mặt
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng có nhiều đồng bào
DTTS sinh sống, một mặt góp phần cải thiện mặt bằng dân trí, rút ngắn
chênh lệch về trình độ giữa miền núi với miền xuôi, giữa đồng bào DTTS
với dân tộc đa số. Nhằm góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch
định chính sách đào tạo nghề và sư dụng lao động thanh niên các DTTS đã
qua đào tạo nghề, việc triển khai dự án nghiên cứu: “Điều tra thực trạng sử
dụng lao động đã qua đào tạo nghề trong thanh niên dân tộc thiểu số nhằm
đề xuất các giải pháp nâng cao đào tạo nghề cho thanh niên dân tộc thiểu
số giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá” có ý nghĩa quan trọng và
mang tính cấp thiết.
2. MỤC TIÊU DỰ ÁN
+ Điều tra đánh giá thực trạng đào tạo nghề cho thanh niên DTTS ở
một số địa bàn trọng điểm.
+ Điều tra đánh giá thực trạng sử dụng lao động thanh niên DTTS đã
qua đào tạo nghề ở một số địa bàn trọng điểm.
+ Đề xuất các giải pháp, chính sách sử dụng có hiệu quả lao động
thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề trong giai đoạn tới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI ĐIỀU TRA
3.1. Đối tượng điều tra
+ Thanh niên DTTS từ 16 đến 35 tuổi đã qua đào tạo nghề đã có việc
làm đúng nghề đào tạo, đang làm việc trái nghề và chưa có việc làm ở các
địa bàn chọn điểm.
+ Thanh niên DTTS chưa được đào tạo nghề ở các địa bàn chọn
điểm điều tra.
+ Các cơ sở đào tạo nghề (trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề và
xúc tiến việc làm, các tổ chức, doanh nghiệp có các hoạt động đào tạo
nghề) ở các địa bàn chọn điểm điều tra.
3
+ Các chủ thể sử dụng lao động (doanh nghiệp, trang trại, các cơ sở
tư nhân, cá thể) ở các địa bàn chọn điểm.
+ Lãnh đạo chính quyền, ban ngành, đoàn thể ở địa phương cấp tỉnh,
cấp huyện, cấp xã (lãnh đạo UBND tỉnh, huyện, xã; lãnh đạo Sở Nội vụ; Sở
NN và PTNT; Sở Giáo dục; Sở LĐ-B&XH, Sở Y tế; Lãnh đạo tổ chức
Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Hội phụ nữ các cấp. Lãnh đạo các phòng
ban ở cấp huyện như: Phòng Nội vụ; Phòng NN&PTNT hoặc Phòng Kinh
tế; Phòng LĐ-TB&XH; Phòng Giáo dục; Phòng Y tế... ở các địa bàn chọn
điểm điều tra.
3.2. Phạm vi điều tra
3.2.1. Về nội dung
+ Tình hình đào tạo nghề cho thanh niên DTTS ở các địa bàn chọn
điểm điều tra.
+ Tình hình sử dụng lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề.
+ Các giải pháp, chính sách sử dụng có hiệu quả lao động thanh niên
DTTS đã qua đào tạo nghề.
3.2.2. Về không gian
Dự án điều tra tại 3 tỉnh đại diện cho 3 vùng có nhiều đồng bào
DTTS, trong đó:
+ Vùng Tây Bắc chọn tỉnh Lào Cai làm đại diện.
+ Vùng Tây Nguyên chọn tỉnh Đắk Lắk làm đại diện.
+ Vùng ĐBSCL chọn tỉnh Sóc Trăng làm đại diện.
3.2.3. Về thời gian
+ Các thông tin, tư liệu, số liệu được thu thập trong khoảng thời gian
3 năm, từ năm 2005 đến năm 2007, không kể các chủ trương, chính sách.
+ Thời gian thực hiện dự án: Năm 2008.
IV. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU
1. Phương pháp thu thập thông tin, số liệu thứ cấp
Nhằm đạt các mục tiêu đặt ra của dự án, các thông tin, tư liệu, số liệu
thứ cấp cần được thu thập gồm:
+ Các thông tin, tư liệu, số liệu về tình hình kinh tế-xã hội các tỉnh
điều tra qua 3 năm gần đây: Tình hình đất đai, tình hình dân số và lao động,
các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu (GDP, cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh
tế, tình hình thu nhập dân cư, tình hình đói nghèo…)
4
+ Các thông tin, tư liệu, số liệu về tình hình phân bổ và sử dụng lao
động: Lao động thường xuyên làm việc trong các ngành kinh tế, tình hình
việc làm, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động….ở các địa bàn điều tra 3 năm
gần đây.
+ Các thông tin, tư liệu, số liệu về tình hình phát triển hệ thống đào
tạo nghề ở các địa bàn điều tra qua 3 năm gần đây.
+ Kết quả đào tạo nghề cho thanh niên DTTS, tình hình sử dụng lao
động thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề…ở các địa bàn điều tra 3 năm
gần đây.
+ Các chính sách của địa phương nhằm khuyến khích đào tạo nghề
và sử dụng lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề ở các địa bàn
điều tra.
Các thông tin, tư liệu, số liệu thứ cấp được thu thập từ các cơ lãnh
đạo địa phương năng, cơ quan thống kê, các báo cáo đã công bố, các công
trình nghiên cứu đã công bố và truy cập Internet…
2. Phương pháp thu thập thông tin, số liệu sơ cấp
2.1. Chọn mẫu điều tra
Tại mỗi tỉnh ngoài việc thu thập các thông tin, tư liệu chung liên
quan đến các nội dung điều tra của dự án tiến hành điều tra sâu tại 1xã:
Tỉnh Lào Cai điều tra tại xã Trì Quang, huyện Bảo Thắng; Tỉnh Đắk Lắk
điều tra sâu tại xã ĐắcNuê huyện Lăk; Tỉnh Sóc Trăng điều tra sâu tại xã
Lâm Kiết huyện Thạnh Trị.
Tổng lượng mẫu điều tra tại 3 tỉnh chọn điểm là 249 mẫu, bao gồm:
12 cơ sở dạy nghề, mỗi tỉnh 4 cơ sở; 12 DN có sử dụng thanh niên DTTS
đã qua đào tạo nghề, mỗi tỉnh điều tra 4 DN; 90 cán bộ lãnh đạo chính
quyền các cấp địa phương, lãnh đạo các tổ chức đoàn thể; lãnh đạo các cơ
sở đào tạo nghề; lãnh đạo các DN, mỗi tỉnh 30 người; 75 thanh niên là
người DTTS đã qua đào tạo nghề, mỗi tỉnh 25 người (15 lao động đã qua
đào tạo nghề được làm việc đúng nghề, 5 lao động đã qua đào tạo nghề
đang làm việc trái nghề, 5 lao động đã qua đào tạo nghề nhưng chưa có
việc làm); Điều tra 60 thanh niên là người DTTS chưa qua đào tạo nghề,
mỗi tỉnh 20 người (15 lao động chưa đào tạo nghề đang có việc làm và 5
lao động chưa có việc làm).
Phương pháp chọn mẫu: Nhóm điều tra cùng với lãnh đạo một số cơ
quan liên quan để đánh giá tổng quan về tình hình đào tạo, tình hình sử
dụng lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề, lập danh sách các cơ
sở đào tạo, các DN có sử dụng lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo
nghề sau đó tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên.
5
Đối với các đối tượng thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề và chưa
qua đào tạo nghề, các đoàn công tác làm việc với lãnh đạo chính quyền địa
phương, lãnh đạo tổ chức Đoàn thanh niên ở xã lập danh sách, sau đó tiến
hành lẫy mẫu ngẫu nhiên, không lặp lại.
2.2. Phương pháp thu thập thông tin, số liệu sơ cấp
Các thông tin, tư liệu, số liệu sơ cấp được thu thập bằng các phương
pháp sau đây:
+ Điều tra xã hội học theo hệ thống biểu mẫu soạn sẵn đã qua các
cuộc hội thảo lấy ý kiến góp ý và chuẩn hoá.
+ Phương pháp điền dã dân tộc học.
+ Đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA): Tại các
địa bàn điều tra, các đoàn công tác tổ chức các cuộc hội thảo với các đối
tượng thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề và chưa qua đào tạo nghề để
thu thập các thông tin mới liên quan đến nội dung cần làm rõ của dự án.
+ Hội thảo tại địa phương: Tại các tỉnh, các đoàn công tác đã phối
hợp với địa phương tổ chức các hội thảo tại tỉnh để thu thập các thông tin
liên quan đến các nội dung cần làm rõ của dự án. Thành phần tham dự gồm
lãnh đạo và chuyên viên các cơ quan: Ban dân tộc, Sở Nội vụ, Sở LĐTB&XH; Sở NN & PTNT; Sở KH&ĐT, Sở Giáo dục và đào tạo; Một số
cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh; BCH Đoàn TNCS Hồ Chí Minh...
3. Phương pháp xử lý thông tin, số liệu
Các thông tin, tư liệu, số liệu điều tra sau khi được kiểm tra, loại bỏ
những thông tin sai lệch, các thông tin, số liệu không đại diện được nhập
vào máy tính trên phần mềm EXCEL theo các Form thiết kế cho từng loại
biểu mẫu và xử lý theo hệ thống các chỉ tiêu đầu ra cần thiết cho các nội
dung phân tích.
4. Phương pháp phân tích
4.1. Phương pháp thống kê mô tả
Phương pháp này được sử dụng để mô tả bức tranh tổng quát về tình
hình đào tạo vầ sử dụng lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo ở các địa
bàn chọn điểm. Qua đó rút ra những kết luận về kết quả đào tạo và kết quả
sử dụng lao động thanh niên dân tộc đã qua đào tạo nghề.
4.2. Phương pháp phân tích so sánh
Phương pháp này được vận dụng để phân tích so sánh biến động về
tình hình đào tạo và sử dụng lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo qua
một chuỗi thời gian 3 năm để rút ra các kết luận.
6
4.3. Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Chủ nhiệm dự án mời một số chuyên gia am hiểu về lĩnh vực đào tạo
và sử dụng lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề viết 10 chuyên
đề khoa học liên quan đến các nội dung dự án. Các đoàn công tác đã có các
cuộ phỏng vấn, toạ đàm, trao đổi với một số vị lãnh đạo, các nhà nghiên
cứu và các nhà quản lý có nhiều kinh nghiệm xây dựng chiến lược, hoạch
định chính sách đào tạo và sử dụng lao động là thanh niên đã qua đào tạo
để thu thập các ý kiến tư vấn về các vấn đề liên quan đến các nội dung cần
làm rõ của dự án.
4.4. Phương pháp phân tích chính sách
Phương pháp này được vận dụng để phân tích các ưu điểm, nhược
điểm và các vấn đề cần hoàn thiện của hệ thống chính sách hiện hành liên
quan đến công tác đào tạo nghề cho thanh niên DTTS và sử dụng lao động
là thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề.
5. CÁC CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH
Các thông tin, tư liệu, số liệu được phân tích theo 2 nhóm chỉ tiêu
chủ yếu sau đây:
* Nhóm các chỉ tiêu đánh giá thực trạng công tác đào tạo nghề cho
thanh niên DTTS ở các địa bàn điều tra:
- Tình hình đào tạo nghề cho thanh niên DTTS trên phạm vi cả nước
và các địa bàn chọn điểm.
- Kết quả đào tạo nghề trên phạm vi cả nước và ở các địa bàn chọn
điểm điều tra: Số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề đào tạo.
- Tình hình đầu tư cho công tác đào tạo nghề cho công tác đào tạo
nghề nói chung, ở các địa bàn chọn điểm điều tra nói riêng.
- Các chính sách liên quan đến công tác đào tạo nghề cho thanh niên
DTTS nói chung và ở các địa bàn chọn điểm điều tra.
- Đánh giá của lãnh đạo địa phương về công tác đào tạo nghề cho
thanh niên DTTS trong những năm gần đây.
- Ý kiến, nguyện vọng của thanh niên đã qua đào tạo nghề và chưa
qua đào tạo nghề ở các địa bàn nghiên cứu.
- Những khó khăn, thuận lợi đối với công tác đào tạo nghề cho thanh
niên DTTS ở các địa bàn chọn điểm điều tra.
* Nhóm các chỉ tiêu đánh giá thực trạng sử dụng lao động thanh
niên DTTS đã qua đào tạo nghề ở các địa bàn điều tra:
- Tỷ lệ sử dụng lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề ở các
địa bàn chọn điểm điều tra.
7
- Tình hình sử dụng lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề
phân theo nghề đào tạo.
- Tỷ lệ thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề chưa có việc làm. Các
nguyên nhân không tìm kiếm được việc làm của lao động thanh niên DTTS
đã qua đào tạo nghề.
- Tỷ lệ lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề được thu hút
vào các loại hình tổ chức sản xuất.
- Tỷ lệ thanh niên tự tạo được việc làm sau đào tạo ở các địa bàn
chọn điểm điều tra.
- Năng lực tự tạo nghề của thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề ở
các địa bàn chọn điểm điều tra.
- Tình hình việc làm và thu nhập của thanh niên DTTS đã qua đào
tạo nghề ở các địa bàn chọn điểm điều tra.
- Đánh giá của lãnh đạo địa phương, lãnh đạo các doanh nghiệp về
tỷ lệ thanh niên DTTS có việc làm ngay sau đào tạo nghề ở các địa bàn
chọn điểm điều tra.
- Đánh giá của thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghề và chưa qua
đào tạo nghề về tỷ lệ thanh niên DTTS có việc làm sau khi được đào tạo
nghề ở các địa bàn chọn điểm điều tra.
- Nguyện vọng và kiến nghị của thanh niên DTTS đã qua đào tạo
nghề ở các địa bàn chọn điểm điều tra.
- Những khó khăn chính trong việc tìm kiếm việc làm và tự tạo việc
làm của lao động thanh niên DTTS đã qua đào tạo nghể ở các địa bàn chọn
điểm điều tra.
- Những điểm chưa phù hợp của hệ thống chính sách trợ giúp thanh
niên DTTS đã qua đào tạo nghề tự tạo việc làm.
8
Phần thứ nhất
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐÀO TẠO NGHỀ CHO
THANH NIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
THANH NIÊN DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐÃ QUA ĐÀO TẠO NGHỀ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO THANH NIÊN DTTS
1. Một số khái niệm
1.1. Thanh niên DTTS
Điều 1 Bộ Luật Thanh Niên được Quốc hội nước ta thông qua tại kỳ
họp thứ 8 Quốc hội khoá 11 đã đưa ra định nghĩa: “Thanh niên là công dân
Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”[1]. Từ định nghĩa này,
khái niệm về thanh niên DTTS được hiểu như sau: “Những người trong
cộng đồng các DTTS là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi gọi là
thanh niên DTTS”. Việc phân biệt khái niệm thanh niên nói chung với khái
niệm thanh niên DTTS có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các
chủ trương, chính sách ưu tiên của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng
các DTTS nhằm xoá dần những chênh lệch trong sự phát triển kinh tế-xã
hội giữa các dân tộc đông người và các DTTS.
1.2. Nghề
Theo nghĩa tiếng Việt, thuật ngữ nghề là một thành phần tạo nên các
từ ghép như: Tay nghề, làm nghề, lành nghề, hành nghề… Trong tiếng Việt
từ nghề ghép với từ nghiệp thành từ nghề nghiệp, từ này có thể dùng dưới
dạng danh từ để chỉ nghề theo một cách nói khái quát không gắn với một
nghề cụ thể nào, cũng có thể dùng làm định ngữ như hoạt động nghề
nghiệp, giáo dục nghề nghiệp.
Nghề là thuật ngữ chung chỉ hoạt động lao động chân tay và trí óc
chuyên làm có thể giúp người ta một phương tiện kiếm sống. Nghề có thể
thiên về thủ công hoặc trí tuệ, có thể là tự người lao động tạo ra hoặc làm
làm công ăn lương, làm thuê. Nghề có thể đơn giản hoặc phức tạp, có thể
được đào tạo hoặc không được đào tạo. Phần lớn các nghề thuộc loại làm
công ăn lương, thường có trình độ quy định theo bậc từ thấp đến cao và đòi
hỏi được đào tạo. Thuật ngữ nghề thường đi kèm theo một danh từ cụ thể
để chỉ một lĩnh vực, phạm vi và cả trình độ hoạt động như: nghề thợ tiện,
nghề cơ khí, nghề kỹ sư, nghề y tá…. Để làm phong phú thêm tiếng Việt và
có sự phân biệt rõ nghĩa hơn về các từ ngữ này, nên chăng chúng ta dùng từ
nghề để chỉ các nghề đơn giản thiên về thủ công, thực hành, còn dùng từ
nghề nghiệp để chỉ các nghề phức tạp thiên về trí tuệ.
9
Từ Nghiệp có gốc là chữ Hán, có nghĩa là nghề hay ngành, như nông
nghiệp là nghề nông, lâm nghiệp là nghề rừng hay chuyên nghiệp có nghĩa
là chuyên ngành nghề .
Theo từ điển tiếng Việt, Nghề là công việc chuyên làm theo sự phân
công lao động xã hội (ví dụ: nghề dạy học, nghề nông). Nghề là phương
tiện tạo ra thu nhập bằng vật chất, hay tiền bạc để đảm bảo cuộc sống cho
con người và tiếp tục làm nghề.
Theo chúng tôi, thuật ngữ Nghề nghiệp nên hiểu là các nghề phức
tạp thiên về trí tuệ có trình độ cao hơn, bao giờ cũng đòi hỏi phải được đào
tạo, nhiều khi lâu dài, luôn gắn với cơ hội thăng tiến trong nghề của con
người, vì trong thành phần từ ghép này có chữ nghiệp, hiểu theo nghĩa sự
nghiệp, kế nghiệp (kế tục sự nghiệp)
“Nghề nghiệp” là một trong những khái niệm cơ bản thể hiện bản
chất của việc làm trong nền kinh tế hiện đại, tuy nhiên lại không có ý nghĩa
nhiều trong nền kinh tế truyền thống. Trong nền kinh tế mà công việc được
trả công chiếm ưu thế, công việc có thể phân loại theo các chức năng và
nhiệm vụ. Mỗi người lao động sẽ được phân công làm việc trong các ngành
nghề khác nhau phù hợp với khả năng của họ.
Nghề nghiệp được hình thành trên cơ sở nhóm chức năng, mức độ
hiểu biết. Năng lực và kinh nghiệm của người lao động sẽ đạt được thông
qua trình độ tay nghề và kiến thức. Các nghề có xu hướng yêu cầu người
lao động đạt được những trình độ nhất định thông qua các chương trình đào
tạo căn bản và tại các cơ sở đào tạo có độ tin cậy cao. Mặc dù có nhiều
nghề nghiệp phổ biến rộng rãi và đã tồn tại khá dài, nhưng chúng khác
nhau bởi các điều kiện cụ thể và chúng không thể tồn tại mãi được do có sự
thay đổi và phát triển của của công nghệ. Do đó, nghề nghiệp này có thể bị
lạc hậu để nhường chỗ cho sự xuất hiện của những nghề nghiệp mới.
1.3 Đào tạo và đào tạo nghề
1.31. Đào tạo
Theo cách giải thích của Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, về
cơ bản thì đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường, gắn với giáo
dục đạo đức, nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo của một người
còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc tự học và tham gia
các hoạt động xã hội, lao động sản xuất rồi tự rút kinh nghiệm của người đó
quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào
tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao. Tuỳ
theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và cho lao động, người ta phân biệt
đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ
cho nhau với những nội dung do các đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ
xã hội, của tình trạng khoa học, kỹ thuật và văn hoá của đất nước. Khái
10
niệm giáo dục nhiều khi bao gồm cả khái niệm đào tạo. Khái niệm về đào
tạo đã được nêu ra trong Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam như sau:
Đào tạo là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho
người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo... một cách
có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng
nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc
phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người. [26]
Từ khái niệm trên đây cho thấy đào tạo chính là quá trinh hình thành
nhân cách, hình thành các tri thức, kỹ năng kỹ xảo cho từng con người để
họ có thể đáp ứng được các yêu cầu phát triển bản thân và xã hội.
1.3.2. Đào tạo nghề
Có thể hiểu khái niệm đào tạo nghề như sau: Đào tạo nghề là một
quá trình hoạt động nhằm trang bị cho một con người cụ thể nào đó những
kiến thức chuyên môn kỹ thuật ở những cấp độ nhất định để giúp cho họ có
thể tự tạo việc làm hoặc tìm kiếm việc làm trên thị trường lao động.
Trên thực tế hiện nay có nhiều loại hình đào tạo: Tập huấn kỹ thuật,
đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên sâu, đào tạo cơ bản, đào tạo lại, đào tạo
ngắn hạn, đào tạo từ xa... Tất cả các hoạt động đó đều nhằm trang bị cho
một con người cụ thể nào đó những sự am hiểu nhất định về chuyên môn,
kỹ thuật để thực hiện các công việc phù hợp với chuyên môn kỹ thuật mà
họ đã được đào tạo.
1.4. Việc làm và thất nghiệp
1.4.1. Việc làm
Việc làm là các hoạt động tạo ra nguồn thu nhập cho con người. Tuy
nhiên các hoạt động tạo ra nguồn thu nhập đó phải được xã hội thừa nhận
thì mới được gọi là việc làm. Chính vì vậy, trong điều 13 Chương 2 Bộ luật
Lao động của nước ta được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 đã đưa ra
định nghĩa về việc làm như sau: Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm [1]. Theo khái
niệm này khái niệm về việc làm được hiểu phải là các hoạt động tạo ra
nguồn thu nhập nhưng các hoạt động tạo ra thu nhập đó phải được pháp
luật thừa nhận.
1.4.2. Thất nghiệp
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm về thất nghiệp như sau: Thất
nghiệp là tình trạng người lao động muốn có việc làm nhưng không tìm
được việc làm. Có nhiều cách phân loại thất nghiệp, theo các nhà kinh tế,
có thể phân loại thất nghiệp như sau:
11
- Thất nghiệp tạm thời: Đó là tình trạng người lao động bị mất việc
làm tạm thời.
- Thất nghiệp vĩnh cửu: Đó là tình trạng người lao động mong muốn
có việc làm nhưng không thể tìm được việc làm trong mọi trường hợp.
- Thất nghiệp tự nhiên: Đó là tình trạng thất nghiệp không thể giảm
được trong bất kỳ một nền kinh tế năng động nào.
- Thất nghiệp tự nguyện: Đó là tình trạng thất nghiệp do ở một mức
lương nào đó người lao động không chấp nhận làm việc.
1.5. Sử dụng lao động đã qua đào tạo nghề
Sau khi được đào tạo nghề, người được đào tạo có thể tham gia làm
các công việc cụ thể nào đó (có thể sử dụng đúng nghề hoặc trái nghề) hoặc
cũng có thể bị thất nghiệp (chưa tìm kiếm được việc làm). Do vậy, có thể
hiểu khái niệm thuật ngữ sử dụng lao động đã qua đào tạo nghề như sau: Sử
dụng lao động đã qua đào tạo nghề là việc huy động các lao động đã được
đào tạo nghề vào các công việc cụ thể nào đó, có thể là các công việc đúng
với chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo nhưng cũng có thể là các công
việc trái với chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo.
Theo khái niệm này, trong một chừng mực nào đó, khái niệm về sử
dụng lao động đã qua đào tạo nghề đồng nghĩa với tình trạng việc làm của
lao động đã qua đào tạo nghề,
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề và sử dụng lao động thanh
niên DTTS đã qua đào tạo nghề
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề cho thanh niên DTTS
2.1.1. Các yếu tố về điều kiện tự nhiên vùng DTTS
Đặc điểm về điều kiện tự nhiên vùng đồng bào DTTS có ảnh hưởng
tích cực và những tác động tiêu cực đến công tác đào tạo nghề cho thanh
niên DTTS, thể hiện trên các khía cạnh:
Thứ nhất, vùng đồng bào DTTS là vùng có diện tích tự nhiên rộng
lớn, có tiềm năng lớn về phát triển nông, lâm nghiệp hàng hoá gắn với công
nghiệp chế biến và xuất khẩu. Đây là thuận lợi cho việc phát triển đào tạo
nghề cho thanh niên nói chung, thanh niên DTTS nói riêng nhằm đáp ứng
yêu cầu chất lượng lao động nông nghiệp ngày càng cao hơn để phát triển
nông nghiệp hàng hoá gắn với chế biến và xuất khẩu.
Thứ hai, vùng đồng bào DTTS, nhất là vùng TDMNPB là vùng có
nhiều tài nguyên khoáng sản nhưng hiện nay vẫn chưa được đầu tư khai
thác đúng mức và hiệu quả. Trong giai đoạn tới đầu tư khai thác các nguồn
tài nguyên ở các vùng này đòi hỏi phải có một lực lượng đông đảo lao động
12
được đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Đây là thuận lợi rất cơ bản cho công tác
đào tạo nghề cho thanh niên DTTS.
Thứ ba, vùng đồng bào DTTS thường là các vùng miền núi, vùng
sâu vùng xa, địa hình chia cắt phức tạp, giao thông khó khăn là yếu tố cản
tở rất lớn đến công tác đào tạo nghề cho thanh niên DTTS.
Thứ tư, địa bàn trải rộng, giao thông khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp
kémở các vùng DTTS đã dẫn tới các vùng này không mấy hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư nên việc phát triển thị trường lao động ở các vùng này rất
chậm. Đây là yếu tố không thuận lợi đối với công tác đào tạo nghề cho
thanh niên DTTS.
2.1.2. Các yếu tố về điều kiện kinh tế-xã hội
Có thể nói yếu tố về điều kiện kinh tế-xã hội ở các vùng DTTS hiện
nay gần có ít sự thuận lợi cho công tác đào tạo nghề cho thanh niên DTTS.
Ngược lại, điều kiệnh kinh tế-xã hội ở vùng DTTS có rất nhiều khó khăn
đối với công tác đào tạo nghề. Điều này thể hiện trên các khía cạnh:
Một là, lực lượng thanh niên DTTS thường là lực lượng lao động
chính trong các gia đình, nếu họ đi học sẽ gây nên sự thiếu hụt lao động,
ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và thu nhập của gia đình họ.
Hai là, trình độ văn hoá của một bộ phận khá lớn thanh niên DTTS
còn thấp, không đáp ứng được yêu cầu trình độ văn hoá tối thiểu để đào tạo
các nghề phi nông nghiệp trình độ sơ cấp hoặc các nghề nông, lâm, ngư
nghiệp trình độ trung cấp trở lên.
Ba là, thu nhập của đa số thanh niên DTTS còn ở mức thấp nên họ
khó có thể trang trải các khoản kinh phí đào tạo nghề nếu không được bao
cấp toàn bộ của Nhà nước.
Bốn là, nhận thức của thanh niên DTTS trong việc học tập, đào tạo
nghề chưa đúng mức, nhiều người cho rằng họ không cần đào tạo nghề vẫn
có thể làm ăn bình thường được
Năm là, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng vùng có nhiều
DTTS sinh sống còn rất nghèo nàn, thiếu thốn cũng là yếu tố ảnh hưởng rất
lớn đến công tác đào tạo nghề cho thanh niên DTTS.
Sáu là, kinh tế ở các vùng có nhiều DTTS sinh sống kém phát triển,
chủ yếu là nông nghiệp, các ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển chậm
nên thị trường lao động và việc làm hạn chế. Điều này đã tác động không
nhỏ đến tâm lý thanh niên DTTS do họ e ngại sau khi đào tạo nghề sẽ có
rất ít cơ hội tìm kiếm việc làm.
Bẩy là, các dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh ở vùng
nhiều DTTS sinh sống chưa phát triển mạnh, nhất là dịch vụ ngân hàng, tín
dụng nên nhiều thanh niên DTTS sau đào tạo nghề có ít cơ hội tiếp cận