Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Điều Tra Thống Kê Các Nhóm Cây Có Ích Tại Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Hữu Liên Tỉnh Lạng Sơn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN RỪNG VÀ MÔI TRƢỜNG
BẢNG TÓM TẮT KHOÁ LUẬN
TÊN KHOÁ LUẬN:
“Điều tra, thống kê các nhóm cây có ích tại khu bảo tồn thiên nhiên
Hữu Liên, tỉnh Lạng Sơn”
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Trọng Nghĩa
Lớp: CMH Quản lý TNR
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS.Trần Minh Hợi
Địa điểm thực tập: Khu BTTN Hữu Liên, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
MỤC TIÊU CỦA KHOÁ LUẬN
- Phân tích, đánh giá được các nhóm tài nguyên có ích tại khu BTTN
Hữu Liên.
- Xác định được thành phần loài các nhóm cây có ích tại khu BTTN
Hữu Liên.
- Đề xuất các biện pháp quản lý , bảo vệ, phát triển và sử dụng nguồn
tài nguyên thực vật rừng trên núi đá vôi một cách hợp lý.
NỘI DUNG CỦA KHOÁ LUẬN
- Nghiên cứu giá trị tài nguyên thực vật có ích tại khu BTTN Hữu
Liên
- Các loài có trong Sách Đỏ Việt Nam (2007).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thống kê bước đầu ghi nhận 1097 loài thuộc 623 chi, 171 họ thực vật
bậc cao có mạch không chỉ nói lên tính phong phú đa dạng của hệ thực
vật tại đây mà còn khẳng định dù tính nguyên sinh của rừng đã bị ảnh
hưởng ít nhiều nhưng khu vực này vẫn bảo tồn được một nguồn gen
thực vật phong phú, có ý nghĩa cần bảo vệ.
Trong kho tàng gen phong phú của 1097 loài, 623 chi, 171 họ có tới
514 loài thuộc 132 chi được sử dụng làm thuốc. Nhiều loài gỗ quý
hoặc rất quý với số lượng lớn như: Nghiến, Trai, Đinh, Lát, Chò, Dổi,
đặc biệt là Hoàng đàn đã nói lên giá trị tài nguyên của vùng này.
20 loài thực vật được ghi trong Sách Đỏ có mặt tại đây theo các mức
độ khác nhau càng nâng giá trị bảo tồn và tính cấp bách của vấn đề đầu
tư, phát triển bảo tồn đối với khu vực này.
Hệ cây trồng phong phú với 64 họ, 151 chi, 202 loài; đa dạng về
phương diện sử dụng: Làm thuốc, làm thực phẩm, ăn quả, lấy gỗ, làm
cảnh, làm lương thực, xây dựng, đan lát, cho sợi, nhuộm.... Tuy có số
lượng loài không nhiều nhưng được chú ý phát triển với diện tích
đáng kể là những loài cây lương thực, thực phẩm.
Hoàng đàn là một loài thực vật quý hiếm, đặc trưng cho khu BTTN
Hữu Liên, trước kia phân bố rộng, khá phổ biến, có mật độ dầy, cây
gỗ to nhưng nay đã không còn gặp trong rừng tự nhiên. Cần tìm ra
những biện pháp hữu hiệu để phục hồi loài này chính tại khu phân bố
vốn có của chúng.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Trọng Nghĩa
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện khóa luận tốt nghiệp trong
chương trình đào tạo kỹ sư lâm nghiệp, chuyên ngành Quản lý bảo vệ tại
khoa Quản lý Tài nguyên rừng và Môi trường, Trường Đại học Lâm
nghiệp, tôi luôn nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu của các thầy cô
giáo, bạn bè cùng gia đình.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới các cơ quan, tổ chức và các
cá nhân:
Ban Giám hiệu, Khoa Quản lý bảo vệ Tài nguyên rừng và Môi
trường và toàn thể thầy cô giáo Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam đã
giúp tôi hoàn thành khóa đào tạo.
PGS. TS. Trần Minh Hợi, giáo viên hướng dẫn khoa học đã định
hướng và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận.
UBND xã Hữu Liên và người dân trong xã đã tạo mọi điều kiện giúp
đỡ tôi hoàn thành đợt thực tập tại địa phương.
Hạt Kiểm lâm Hữu Liên và Ban quản lý khu Bảo tồn thiên nhiên
Hữu Liên đã tạo mọi điều kiện để tôi thu thập số liệu phục vụ khóa luận.
Do còn nhiều hạn chế về thời gian, nhân lực, tài chính, các điều kiện
nghiên cứu, nên chắc chắn khóa luận còn nhiều thiếu sót. Tôi mong muốn
nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, các nhà
khoa học và đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 24 tháng 04 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Trọng Nghĩa
2
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Núi đá vôi là hệ sinh thái rất đặc biệt của nước ta, nó chứa đựng một
nguồn tài nguyên sinh học vô cùng quí giá. Nằm ở vùng Đông Bắc của đất
nước, Lạng Sơn và Cao Bằng đã tạo nên một hệ sinh thái núi đá vôi có diện
tích lớn nhất của cả nước, khoảng 347.000 ha (Viện ĐTQHR, 1995). Năm
1990, dự án đầu tư thành lập khu Bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Hữu Liên
được xây dựng đề xuất diện tích cho khu bảo tồn là 10.640 ha khu. Khu
BTTN Hữu Liên, tỉnh Lạng Sơn nằm ở phía Tây Nam tỉnh Lạng Sơn, phía
Bắc huyện Hữu Lũng, cách Thị trấn Mẹt 40 km, bao gồm toàn bộ ranh giới
tự nhiên của xã Hữu Liên và một phần ranh giới xã Yên Thịnh và Hoà Bình
của huyện Hữu Lũng, một phần xã Vạn Linh huyện Chi Lăng và một phần
xã Hữu Lễ huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Khu BTTN Hữu Liên là một
trong 49 khu dự trữ thiên nhiên của Việt Nam được ghi nhận là đa dạng về
thành phần loài, về hệ sinh thái và trạng thái rừng với khu hệ động, thực vật
có nhiều loài quí hiếm, có giá trị bảo tồn cao. Một số loài thực vật được bảo
tồn như: Nghiến (Burretiodendron tonkinensis), Trai lý (Garcinia
fagraeoides), Hoàng đàn (Cupressus torulosa)... Không chỉ vậy, khu BTTN
Hữu Liên còn có vai trò lớn trong phòng hộ đầu nguồn sông Thương.
Trước năm 1991 rừng ở đây còn rất tốt, sau đó do quá trình khai thác
tài nguyên rừng bữa bãi của người dân thì nguồn tài nguyên ngày càng cạn
kiệt. Nạn khai thác trộm của tư thương, của nhân dân địa phương, nạn đốt
rừng làm nương rẫy đã làm cho diện tích đất trống, núi trọc ở vùng thấp
chân núi tăng lên nhiều. Diện tích rừng nghèo tăng, diện tích rừng tốt còn
lại ít đi và thường nằm trên các sườn dốc, trên các dông núi cao hiểm trở.
Quanh các làng, bản và dọc hai bên đường ô tô vào trung tâm của
các xã, nhiều diện tích rừng tự nhiên đã biến thành ruộng, nương, đất trống
và đôi chỗ là rừng trồng. Thành phần thực vật tại khu bảo tồn đang diễn
biến theo chiều hướng ngày càng xấu đi.
3
Khu BTTN đã được tổ chức bảo vệ, nhiều khu rừng có giá trị đã bắt
đầu được phục hồi. Tuy nhiên, việc quản lý, bảo vệ, đầu tư vào khu BTTN
chưa thật đầy đủ với giá trị và quy mô của nó. Do vậy, rừng vẫn bị xâm
phạm và chịu nhiều tác động, đặc biệt là sức ép của người dân từ cộng
đồng các dân tộc sinh sống ở nơi đây.
Đã có một số công trình nghiên cứu về hệ thực vật ở nơi đây và các
nghiên cứu đã cho thấy hệ thực vật ở khu BTTN Hữu Liên khá phong phú
với nhiều loài có ý nghĩa bảo tồn trong nước và trên toàn cầu. Đặc biệt,
nhóm thực vật có ích ở khu BTTN Hữu Liên được xem là quần thể thực vật
lớn nhất còn lại ở Việt Nam cần được đặc biệt quan tâm bảo tồn. Tuy
nhiên, công tác bảo tồn thực vật ở khu BTTN Hữu Liên trong nhiều năm
qua gặp nhiều khó khăn, các quần thể thực vật luôn phải chịu các áp lực
khai thác và suy thoái sinh cảnh cao làm cho biến đổi.
Để góp phần nâng cao hiệu quả bảo tồn hệ thực vật ở khu BTTN
Hữu Liên, đặc biệt là nhóm thực vật có ích ở đây, chúng tôi đã lựa chọn
thực hiện đề tài “Điều tra, thống kê các nhóm cây có ích tại khu Bảo tồn
thiên nhiên Hữu Liên, tỉnh Lạng Sơn”. Đề tài nhằm mục đích bổ sung tư
liệu về giá trị tài nguyên cho hệ thực vật; hiện trạng quản lý khu hệ thực vật
tại khu BTTN Hữu Liên và đề xuất các giải pháp bảo tồn khu hệ thực vật
và đa dạng sinh học nói chung của khu BTTN.