Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Di tích nhà cổ quân thắng ở khu phố cổ hội an
PREMIUM
Số trang
91
Kích thước
2.4 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1332

Di tích nhà cổ quân thắng ở khu phố cổ hội an

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA NGỮ VĂN

----------------

KHÓA LUÂN T ̣ ỐT NGHIÊP Đ̣ ẠI HỌC

NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HÓA HỌC

Đề tài:

DI TÍCH NHÀ CỔ QUÂN THẮNG Ở KHU PHỐ CỔ HỘI AN

Người hướng dẫn:

ThS. Lương Vĩnh An

Người thực hiện:

Phùng Văn Phương

Đà Nẵng, tháng 5/2013

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn hóa truyền thống Việt Nam là một dòng chảy xuyên suốt lịch sử hàng

ngàn năm của dân tộc, kết tinh qua bao thế kỷ. Được hình thành từ nền văn minh

Văn Lang Âu Lạc, phát triển qua nền văn minh Đại Việt, trải qua nhiều giai đoạn

lịch sử với biết bao sóng gió, biến cố của dân tộc để tồn tại đến ngày hôm nay và

trở thành những giá trị vô cùng quý báu. Trong tiến trình dựng nước và giữ nước, ở

bất kỳ thời điểm nào, hay bất cứ nơi đâu trên mảnh đất hình chữ S này, chúng ta

đều bắt gặp những di tích lịch sử - văn hóa như đình, chùa, đền, miếu, mộ, lăng

tẩm, chùa chiền, những khu phố cổ... còn sót lại. Hay những giá trị văn hóa phi vật

thể như: Dân ca quan họ Bắc Ninh, Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa

Cồng Chiêng Tây Nguyên… mà giờ đây tất cả đã trở thành những tài sản vô cùng

quý giá của dân tộc, tạo nên một bộ mặt riêng trong cái tổng thể hài hòa của nền

văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.

Di tích lịch sử văn hóa là tài sản vô cùng quý giá của mỗi địa phương, mỗi

dân tộc, mỗi quốc gia và cả nhân loại. Di tích lịch sử văn hóa là những bằng chứng

xác thực và cụ thể nhất về đặc điểm văn hóa của từng dân tộc, từng quốc gia trong

mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, nó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền

thống tốt đẹp, về kĩ năng, kĩ xảo, về tâm linh con người. Chính vì thế, vấn đề bảo

tồn phát huy giá trị của di tích là nhiệm vụ cần thiết của mỗi quốc gia.

Nhà cổ Quân Thắng là một trong những công trình kiến trúc dân dụng thuộc

loại hình nhà phố đẹp nhất, cổ nhất ở khu phố cổ Hội An, được chủ hiệu buôn

người Hoa, hiệu là Quân Thắng xây dựng vào cuối thế kỷ XVII. Ngôi nhà là một

bộ phận kiến trúc cấu thành nên quần thể kiến trúc khu phố cổ Hội An. Nhà cổ

Quân Thắng chứa đựng nhiều đặc trưng của kiến trúc cổ Hội An, như các vì kèo

chồng rường giả thủ, vì vỏ cua, cột trốn kẻ chuyền… với các đồ án được chạm trổ

tinh vi sắc sảo. Bên cạnh đó, người xưa đã thể hiện óc thẩm mĩ của mình bằng cách

trang trí trên các vì kèo, trên tường hay trên vách những bức tranh tứ dân, tứ quý

hết sức độc đáo. Cùng với hòn non bộ, cuốn thư, hay cách xắp xếp bày trí trong

không gian văn hóa sinh hoạt của ngôi nhà đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp cho

ngôi nhà phố ở Hội An.Với kết cấu kiến trúc chạm khắc tinh sảo, chúng ta rất khó

có thể nhận ra đâu là kiến trúc, đâu là chạm khắc, bởi giữa chúng đã có sự hài hòa,

trộn lẫn vào nhau để tạo nên những nét riêng trong một thực thể thống nhất của

kiến trúc cổ Hội An mà ít nơi nào có được, điều đó đã khẳng định sự phát triển

đỉnh cao của các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng xưa.

Với những giá trị nổi bật của mình, ngày 15/8/1997 nhà cổ Quân Thắng đã

được đưa vào danh mục những di tích - danh thắng (loại 1) cần được bảo vệ theo

quyết định 1353/QĐ-UD của UBND tỉnh Quảng Nam. Nhà cổ Quân Thắng là một

di tích sống chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, cư dân, kinh tế, kiến trúc

của khu phố cổ Hội An. Nhưng cho đến nay, những công trình nghiên cứu về nhà

cổ Quân Thắng chỉ mang tính khái quát, chung chung chưa có công trình nào

nghiên cứu kĩ và chi tiết. Vì vây, việc nghiên cứu nhà cổ Quân Thắng một cách có

hệ thống là vấn đề cấp bách và cần thiết, góp phần phục vụ công tác nghiên cứu,

bảo tồn và phát huy giá trị khu phố cổ Hội An. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Di

tích nhà cổ Quân Thắng ở khu phố cổ Hội An” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nhà cổ Quân Thắng là một công trình kiến trúc dân dụng, bao hàm tất cả các

yếu tố tiêu biểu của kiến trúc Hội An, ngôi nhà chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn

hóa khác nhau như: Việt - Hoa - Nhật - Phương Tây. Đây là kết quả của việc giao

lưu văn hóa ở Hội An trong quá trình hình thành và phát triển trong nhiều thế kỷ

trước. Cho đến nay đã có khá nhiều, công trình nghiên cứu về quá trình hình thành

và phát triển của Khu phố cổ Hội An hoặc những vấn đề liên quan đến Khu phố cổ

Hội An. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nhà cổ Quân Thắng chỉ khởi nguồn trong thời

gian gần đây. Có một số công trình, bài báo, bài nghiên cứu đề cập đến nhà cổ

Quân Thắng, nhưng chỉ là những mảng rất nhỏ như:

 Nguyễn Thị Nhung với tập: “Lý lịch di tích nhà cổ Quân Thắng” lập ngày

5/02/1992.

 Nguyễn Quốc Hùng với tác phẩm: “ Phố cổ Hội An và việc giao lưu văn hóa

ở Việt Nam” do Nxb Đà Nẵng xuất bản năm 1995.

 Nguyễn Văn Xuân và tác phẩm “Hội An” do Nxb Đà Nẵng, xuất bản năm

1997.

 Nguyễn Phước Tương với tác phẩm: “Đô thị cổ Hội An và những di tích tiêu

biểu” do Nxb Giáo dục xuất bản năm 1997.

 Trương Văn Tâm với tác phẩm: “Quảng Nam - Đà Nẵng - Di tích,Thắng

cảnh, du lịch” do Nxb Đà Nẵng xuất bản năm 1997.

 Phạm Hoàng Hải với tác phẩm: “Người bạn đường du lịch văn hóa Hội An”

do Nxb thế giới xuất bản năm 2001.

 “Kiến trúc phố cổ Hội An Việt Nam” của Viện Nghiên cứu Văn hóa Quốc tế

- Trường Đại học Nữ Chiêu Hòa, Nhật Bản (2003).

 Trần Ánh với tác phẩm “Nhà gỗ Hội An - Những giá trị và giải pháp bảo

tồn” do Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An xuất bản năm 2005.

 Tạ Thị Hoàng Vân với “Di tích kiến trúc Hội An Trong tiến trình lịch sử”

Nxb Hà Nội (Đại học Quốc gia Hà Nội) năm 2007.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu chỉ giới thiệu sơ lược về kết cấu kiến

trúc của nhà cổ Quân Thắng mà chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống

những giá trị đích thực vốn có của di tích. Vì vậy, với thái độ trân trọng những kết

quả nghiên cứu của các học giả đi trước , chúng tôi đã cố gắng tham khảo, kế thừa,

chọn lọc những tư liệu có liên quan đến nhà cổ Quân Thắng, đồng thời kết hợp với

hướng tiếp cận mới còn bỏ trống trong quá trình thực hiện đề tài: “Di tích kiến trúc

nhà cổ Quân Thắng ở khu phố cổ Hội An”.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng chính của khóa luận là nhà cổ Quân Thắng, số 77 đường Trần

Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

3.2 Phạm vi nghiên cứu

Với khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp cho nên tác giả không có tham

vọng giải quyết tất cả những vấn đề có liên quan đến di tích. Tác giả chỉ muốn đặt

viên gạch cho việc tìm hiểu sâu rộng hơn về nhà cổ Quân Thắng. Đặc biệt là những

giá trị ẩn chứa bên trong di tích như giá trị lịch sử, văn hóa nghệ thuật, việc sử

dụng và khai thác du lịch, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của nhà cổ trong

thời gian qua.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tà

i này chúng tôi sử duṇ g các phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp điều tra xã hội học, cụ thể:

+ Phương pháp điền dã, quan sát, phỏng vấn

+ Phương pháp miêu tả, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.+ Phương

pháp luận duy vật lịch sử để nhận định, xem xét, đánh giá và sử dụng tài liệu.

- Phương pháp liên ngành: Phương pháp sử học, phương pháp Bảo tàng học,

phương pháp khảo cổ học…

5. Những đóng góp của đề tà

i

Về mặt khoa học: Khóa luận đã tổng hợp và hệ thống hóa các tài liệu về

chính sách phát triển và giá trị của di tích. Xác định được những giá trị lịch sử, văn

hóa nghệ thuật, giá trị sử dụng và khai thác du lịch ở di tích.

Về mặt thực tiễn: Khẳng định giá trị của kiến trúc Nhà cổ. Nêu lên được

thực trạng nhà cổ, từ đó đề xuất những nhận định xây dựng các phương án bảo tồn,

quản lý và khai thác di tích một cách có hiệu quả và tốt nhất. Là cơ sở cho các nhà

lãnh đạo, các nhà nghiên cứu tham khảo để đưa ra những biện pháp nghiên cứu,

khai thác, bảo tồn có hiệu quả về di tích kiến trúc nhà cổ ở Hội An.

6. Bố cục khóa luận

Ngoà

i phần mở đầu, phần kết luâṇ , phụ lục và thư mục tài liệu tham khảo, khóa

luận được cấu tạo thành 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về khu phố cổ Hội An

Chương 2: Nhà cổ Quân Thắng

Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị nhà cổ Quân Thắng.

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ KHU PHỐ CỔ HỘI AN

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển

1.1.1 Vài nét về địa lý tự nhiên

Vị trí địa lý: Thành phố Hội An là một trong 17 huyện thị của tỉnh Quảng

Nam, nằm ở vùng cửa sông ven biển, cuối tả ngạn sông Thu Bồn, ở vị trí 15º 53’ vĩ

bắc, 108º 19’ kinh đông, cách thành phố Đà Nẵng 30km về phía Đông Nam và

cách thành phố Tam Kỳ chừng 55km về phía Bắc, với diện tích 60,846km2

[44,

tr.27]. Phía Nam và Đông Nam giáp huyện Duy Xuyên, Tây và Tây Bắc giáp

huyện Điện Bàn, Bắc và Đông Bắc giáp Biển Đông với Cù Lao Chàm che chắn.

Địa hình địa mạo: Lịch sử tạo thành vùng đất Hội An khá phức tạp, nó gắn

liền với các đợt biển tiến, biển lùi và quá trình bồi tụ của sông biển. Theo kết quả

nghiên cứu địa chất thì khu vực đô thị cổ Hội An hiện nay được xây dựng trên bề

mặt tích tụ có nguồn gốc biển nằm ở độ cao 5 đến 7m và tích tụ sông biển cao 4

đến 6m và 3 đến 4m thời kỳ biển tiến Holoxen trung cách đây 6.000 đến 4.000

năm trước công nguyên, mực nước đạt cực đại 4 đến 5m. Ngoài ra còn có các bãi

bồi cao 1 đến 1,5m mới được tích tụ khoảng 100 đến 300 năm hoặc muộn hơn là

các bãi cát ven lòng sông mới có tuổi dưới 100 năm, nên rất dễ bị thay đổi [70,

tr.91-92]. Còn phần phía Nam với bề mặt tích tụ 2 đến 4m được hình thành muộn

hơn, vào giai đoạn biển lùi cách đây 4.000 đến 2.000 năm trước công nguyên. Vào

đầu công nguyên, đợt biển tiến đạt cực đại +2m làm cho cửa sông Thu Bồn trở

thành một vụng biển, vụng biển này kéo quá về phía Tây, làm cho thành phố cũng

kéo về phía tây. Đây là một dạng cửa sông vì 2 phía Nam và Bắc cửa sông Thu

Bồn, nước biển không tràn ngập quá sâu vào đất liền, sau đó mực nước biển bắt

đầu hạ thấp và các dạng địa hình có nguồn gốc khác nhau được tạo thành. Cuối thế

kỷ XVIII, quá trình di chuyển dọc bờ của bùn cát từ hai phía cửa sông Thu Bồn

làm cho cửa phía Bắc bị lấp lại và biến nó thành cửa Khẩu. Từ khi cửa này bị vùi

lấp nó đã ép dòng sông Thu Bồn chảy về hướng Nam khiến cho bờ Nam cửa Đại bị

phá hủy, các tuyến đường sông luôn thay đổi và bị lấp dần. Thế kỷ XIX, quá trình

tích tụ ở phần ven biển lẫn trên toàn bộ cửa sông Thu Bồn đã làm cho các vùng đất

và đầm phá ở phía Nam bị bồi lấp mạnh mẽ.

Mặc dù diện tích không lớn nhưng Hội An có khá nhiều địa hình với nhiều

nguồn gốc khác nhau, chẳng hạn như: địa hình có nguồn gốc sông, sông - đầm lầy,

biển, sông - biển, biển - đầm lầy, biển - gió, sông biển - đầm lầy, hồ - dầm lầy, qua

các kết quả nghiên cho thấy đô thị cổ Hội An có tính chất là một thành phố sông

nước, với đặc điểm vừa hội nhân vừa hội thủy [55, tr.436], vừa cận thị vừa cận

giang.

Khí hậu: Hội An nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mỗi năm có 2 mùa rõ

rệt: mùa mưa (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau) với những đợt gió mùa Đông Bắc

có tốc độ cực đại lên đến 40m/s thường kéo theo mưa, bão, lũ, lạnh. Mùa khô (từ

tháng 4 đến thang10) với gió Đông Nam mát mẽ vã có cả gió phơn Tây Nam khô

nóng.

Nhiệt độ không khí: nhiệt độ trung bình ở Hội An khoảng 25,9ºC và biên độ

trung bình dao động trong khoảng 15-38ºC, lạnh nhất là các tháng 12, tháng một,

nóng nhất là các tháng 7, tháng 8 [52]. Độ ẩm không khí ở đây khá cao, trung bình

82-85%, mùa hạ giảm còn 70-78%. Tổng lượng mưa trung bình năm là 2.087mm,

phần lớn tập trung vào mùa đông chiếm 2/3 lượng mưa trung bình cả năm. Bão

thường bắt đầu tháng 10 - 11 vào mùa đông, tốc độ gió trong bão thường cấp 8 - 9,

có khi lên cấp 12.

Môi trường tự nhiên ưu đãi cho Hội An các nguồn tài nguyên dồi dào, phong

phú. Biển có ngư trường hải sản với nhiều loại tôm tươi ngon nổi tiếng. Hải sản có

yến sào - một loại thực phẩm và dược liệu siêu Việt. Rừng Cù Lao Chàm có nhiều

lâm sản, dược liệu, động vật quí hiếm. Đất đai phù sa ven sông màu mỡ thích hợp

với nhiều loại cây trồng… vì thế mà người xưa đã nhận xét rằng:

“Hội An trăm vật trăm ngon

Người thanh cảnh lịch, tiếng đồn chẳng sai”

(Cao dao)

Nhìn chung điều kiện địa lý tự nhiên khu vực Hội An khá thuận lợi cho quá

trình hình thành và phát triển của đô thị thương cảng cổ Hội An nếu con người biết

khai thác, phát huy lợi thế, tiềm năng của nó.

1.1.2 Các giai đoạn phát triển

1.1.2.1 Thời kỳ tiền Hội An

1.1.2.1.1 Văn hóa Sa Huỳnh

Văn hóa Sa Huỳnh có cùng thời kỳ với văn hóa Đông Sơn, nó phát triển

hưng thịnh từ hàng 100 năm TCN, cho đến thế kỷ thứ II SCN. Đó là nền văn hóa

trồng lúa và tiền kim khí, di chỉ đầu tiên của văn hóa Sa Huỳnh là phố Sa Huỳnh ở

Quảng Ngãi đã bị cát vùi lấp đã được các nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện

năm 1937, Madeleine Colani đã chính thức xác nhận đây là một nền văn hóa. Đặc

trưng của văn hóa này tìm thấy trong các ngôi mộ chùm có chôn kèm những đồ

kim khí, vật trang trí bằng mã não, hạt ngọc thủy tinh, khuyên tai có mấu, ngoài ra

đôi khi còn thấy cả tiền cổ Trung Quốc. Đặc trưng của gốm là những hoa văn trang

trí lượn sóng. Đặc biệt hơn nữa là khuyên tai có mấu và khuyên tai hình đầu thú

cũng được khai quật tìm thấy ở bờ biền phía tây của Philippin, trung bộ Thái Lan,

phía bắc bán đảo Malai, điều này chứng tỏ một điều trước và sau công nguyên, ở

vùng biển Đông Nam Á đã diễn ra những hoạt động giao lưu nhộn nhịp.

Ở Hội An đã phát hiện hơn 50 địa điểm là di tích của văn hóa Sa Huỳnh,

phần lớn tập trung chủ yếu ở những cồn cát ở ven sông Thu Bồn cũ. Thuộc các địa

điểm như: An Bang, Thanh Chiếm, Hậu Xá thuộc địa phận Xã Cẩm Hà.

Số di tích đó thuộc hậu kì đá Sa Huỳnh khoảng trước và sau công nguyên,

một đặc điểm của khu vực này là không có di tích thuộc thời kỳ đầu và giữa. Sưu

tập hiện vật của văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An thể hiện cơ cấu kinh tế nông - thương

- ngư - lâm nghiệp của cư dân cổ Hội An, đặc trưng riêng của văn hóa này chủ yếu

do tính chất sông biển và vị trí giao lưu văn hóa qua lại của Hội An xưa quyết định.

Với vị trí cửa sông ven biển mở ra bên ngoài, cư dân Sa Huỳnh đã “có cái

nhìn về biển giao lưu xa và chặt chẽ với miền cao nguyên Thượng Lào - Kòrạt và

miền hải đảo Thái Bình Dương, giao lưu với cư dân Đông Sơn (Bắc bộ Việt Nam),

và cư dân Đồng Nai theo cả đường bộ và đường biển” [56, tr.102].

1.1.2.1.2 Văn hóa Chămpa

Tiếp theo nền văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An là nền văn hóa Chămpa, từ thế kỷ

II đến thế kỷ XV một dải đất miền Trung Việt Nam nằm dưới sự thống trị của

Vương Quốc ChămPa. Vương quốc Chămpa là đất nước của dân tộc Chăm thuộc

ngữ hệ Mã Lai - Đa Đảo. Di tích đặc trưng của văn hóa Chămpa là các nhóm điện

thờ của đạo Hindu phân bố theo chiều dài từ Trung đến Nam Bộ.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!