Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đền Trần - Chùa Tháp tỉnh Nam Định
PREMIUM
Số trang
232
Kích thước
13.6 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
739

Đền Trần - Chùa Tháp tỉnh Nam Định

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

TRỊNH THỊ NGA

(Suii tẩm - Biên soạn)

DI TÍCH LỊCH SỬ-VĂN HÓA

ĐỂN TRẦN - CHÙA THÁP

TỈNH NAM ĐĨNH

TRINH TH| NGA

Sinh năm 1964

- Quê xã Yên Phong huyện

Ý Yên tỉnh Nam Định.

- Trú tại 53/71 đường Kênh,

phường Cửa Bắc thành phố

Nam Định.

-Cửnhân văn hoá.

- Hội viên hội Khoa học lịch

sửNam Định.

- HưÉng dẫn viên Ban quản lí

khu di tích lịch sử - văn hoá

đền Trần - chùa Tháp thành

phô Nam Định.

NHÀ XUẤT BẢN VÀN HÓA DÂN TỘC - 2008

Mobile; 0989189179

TRỊNH THỊ NGA

(SƯU TẦM - BIÊN SOẠN)

DI TÍCH LỊCH s ử ■ VĂN HOÁ

ĐỂN TRẦN, CHÙA THÁP

TỈNH NAM ĐỊNH

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ DÂN TỘC

HÀ NỘI - 2009

LỜI NÓI ĐẦU

Khu di tích lịch sử văn hoá đền Trần - chùa Tháp thuộc phủ

Thiên Trường xưa của nhà Trần, thờ phụng các vị vua anh

minh, những tướng tài xuất chúng, những nhà văn hoá tài ba.

Công đức của họ đã làm vẻ vang cho đất nước, đem lại niềm tự

hào cho dân tộc. Tên tuổi của họ sống mãi trong lòng dân với

một tấm lòng kính trọng.

Tiền nhân đã xây dựng ở Nam Định nhiều công trình văn

hoá có giá trị như: đền Trần (Tức Mặc) thờ 14 vị Hoàng đ ế

thời Trần; đền C ố Trạch, đền Bảo Lộc thờ Quốc Công Tiết

C hế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn; đền Vạn Khoảnh

thờ vị thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần là Trần Thừa; đền

Lựu Phố, đền Lốc thờ Thống Quốc Thái sư Trần Thủ Độ; đình

Cao Đài, đền Hậu Bồi thờ Chiêu minh vương Trần Quang

Khải; chùa Phổ Minh thở Phật và thờ Tam tổ Trúc Lâm, tiêu

biểu là tháp Phổ Minh - một biểu tượng văn hoá triều Trần

độc đáo tại Nam Định.

Cuốn sách Di tích lịch sử - vân hoá đền Trần - Chùa Tháp

tỉnh Nam Định nhằm giới thiệu, khảo cứu về các di tích thuộc

quần thể văn hoá triều Trần tại thành phố Nam Định. Mặc dù

rất cố gắng nhưng chúng tôi cũng chỉ giới thiệu được phần nào

về địa lí, kiến trúc, nghệ thuật, cách bài trí thờ tự, lễ hội của di

tích có kèm theo một số tư liệu Hán Nôm như hoành phi, câu

đối, bài vị, bia đá, sắc phong... hiện đang lưu giữ tại di tích.

Chúng tôi xin cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của đồng

nghiệp và Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc đ ể cuốn sách được

ra mắt bạn đọc. Hy vọng cuốn sách sẽ là người bạn hướng dẫn

du khách trong cuộc hành hương về quê hương các vị Hoàng

đ ế đời Trần.

Những thiếu sót trong cuốn sách sẽ khó tránh khỏi, chúng

tôi mong nhận được ý kiến đóng góp của quý độc giả và đồng

nghiệp đ ể lần xuất bản sau được hoàn chỉnh hơn.

M ùa thu năm 2008

TÁC GIẢ

so e>ổ OLròo OÍN mỘT số OI T tc N moito O K ẩ iN m«

O I TiCN l ị c N Sư ■ V ÍIN mil u mắN m i N if t* b Ị n h

SÔNG CHMJ

Đển ”

Vạn Khoảnh

sõ’

giang

Đền

Lựu Phô

Đén w *-ăng mộ

Bảo Lộc Trẩn Hưng Đạo

Đển Lộc Quý

Đền thờ

Trẩn Quang Khải

Đỉnh

Llèu Nha

Chùa Tháp

Đến Trán

m ẳằề

' Đ.Trẩn Thủ Độ

QUỐC tộ \ữ

Chùa Đệ Tứ

ĐI THÁI BÌNH

HÀ NỘI TRUNG TAM

TP.NAM ĐỊNH ĩ

sơ Đ ồ ĐirỜNO đI n f5ÍN TRấN ■ CHŨfl THÁP

TÌNH NAM dỊ n H

PHẦNI

HÀNH CUNG THIÊN TRƯỜNG XƯA

PHỦ TH IÊN TRƯỜNG XƯA VÀ NAY

1. Phủ Thiên Trường xưa

Kể từ thời Lý, phía tây sông Hồng tại vùng Nam Định hiện

nay đã là vùng đất được dân xứ Bắc chú ý. Ngọc phả đình

Đông thôn Đệ Tam ghi việc Sứ quân Trần Lãm quê gốc ở

Quảng Đông (Trung Quốc) có công phò giúp Ngô Quyển

chống quân Nam Hán nên được ban thực ấp ở vùng Bố Hải

Khẩu^^\ Nay các làng thôn Đệ Tam (Mỹ Phúc), Thanh Khê

(Mỹ Trung) đều lập đền thờ ông. Đến cuối thời Lý đầu thời

Trần trung tâm này lấn ra tód biển mới chừng 30 dặm. Tòa

thành đất tại Dương Xá và thành đất nhỏ h9fn ở phía nam, phía

bắc đã được Tô Trung Tự, Trần Tự Khánh sửa dựng.

Ngọc phả đình Vị Xuyên thờ vợ chồng tướng quân Đoàn

Thượng, ban đầu có duệ hiệu là Hải Quốc đại tướng, Dương

phu nhân. Dương phu nhân tức bà Dương Thị Mỹ mai danh ẩn

tích về làng Dương Xá, chiêu dân phiêu tán, chấn hưng nghề

mộc và nghề rèn. Câu đối đình Vị Xuyên:

‘T ị quốc bí danh, Đoàn ngôn chính thất.

Giáo dân ấp, hưng công nghệ, Lý đại danh nhân. ”

(1) Nay là vùng đất thị xã Thái Bình và một số xã ven sông Hồng thuộc tỉnh Nam

Định.

5

Dịch nghĩa:

Tránh nạn nước, dấu họ tên, trong cửa họ Đoàn ngôi chính

thất.

Dạy dân ấp, dạy công nghệ dưói triều Lý bậc danh nhân.

Tại Dương Xá, bà lo tái lập làng xóm, cấp đỡ người nghèo,

xây chùa Thiên Thuỷ, dựng đền thờ chồng, bắc cầu mở chợ

khuyên dân chuyên nghề buôn bán.

Trong bài: Tha phương tức sự của Vương Bình An người

Trung Quốc sang đất An Bang (Quảng Ninh) về vùng Thiên

Trường vào cuối triều Lý viết:

Tứ biên thuỷ bích tiếp thiên thanh

Giang thị ngư thôn nhiễu thổ thành

Khang Kiện Qua Châu, nam bắc cận.

Vĩnh Ninh, Bình Giã trại khu trình

Thiên niên Dương Xá phù hoa cảnh

Nhất thếTrần gia đại mộc kình

Thương mại chí kim nam đắc trụ

Tha phương hà dị cố hương sinh

Dịch nghĩa:

Bốn bề nước biếc liền với trời xanh

Chơ sông, xóm chài vòng, vèo bao ngoài thành đất

Ph' I nam, phía bắc gần với Khang Kiện, Qua Châu

Lại còn có trại Vĩnh Ninh, khu Bình Giã

Muôn năm Dương Xá phồn hoa cảnh

Một thuở Trần Triều rạng rỡ danh

Buôn bán đến nay chừng khó ngặt

Quê đây khôn dễ sánh quê mình!

Nam Du Tạp Ký của Lý Kiến Bình, người phường Tiểu Ba,

ấp Đông Ba phủ Chương Châu tỉnh Phúc Kiến - Trung Quốc là

một thương nhân do nội loạn di cư đến phủ Thiên Trường vào

năm 1212 thì viết như sau: “Nơi đây có bến đò, có chợ, có

trang ấp Phù Hoa, Khang Kiện, Thiên Bồi, Vĩnh An, Dương

Xá, Qua Châu.”

Đầu tháng chạp năm Đinh Mùi (1368) Trần Thế Hưng một

vị tướng thời Trần trước khi đi đánh Chiêm Thành, qua phủ

Thiên Trường có viết bài thơ:

MỸ LỘC HUYỆN BẢO DẠ TÚC

Đinh Mùi niên - Trần T h ế Hưng

Vũ sư Cảo khẩu ngọ nan tình

Tam bạc giang châu phó thị đình

Đông tiết dạ lai minh ngũyệt độn

Hàn phong suy chí tửu gia quynh

Lựu Viên cố trạch hà nhân vấn

An ấp tân từ tự cổ linh

C ố thuyết anh hùng công bất hủ

Đương tri dân tử vạn thiên huỳnh.

Dịch nghĩa:

ĐÊM NGHỈ LẠI THÀNH HUYỆN MỸ LỘC

(Năm Đinh Mùi (1368) Trần Thế Hưng)

Mưa sàng cửa Cảo trưa không tạnh

Neo tạm thuyền lên ngắm thị đình

Trăng sáng đêm đông tìm chỗ trốn

Gió lùa quán rượu cửa then nhanh

Lựu Viên nhà cũ ai còn hỏi

An ấp đền nay trước vẫn linh

Cứ nói anh hùng công bất hủ

Nên hay dân chết vạn mồ xanh.

Câu đối khắc ghi tại đền Thiên Trường, phường Lộc Vượng

thành phố Nam Định.

ức niên cư d ĩ sinh nhai

Dương Aứ thuỷ lai đình tất trú

Chí hậu công vu Lý tộ,

Khang thôn sơ định tác gia từ.

D ịch :

Nhớ xưa sinh sống bằng nghề chài

Buổi đầu dừng gót nơi Dương Xá

Về sau có công với nhà Lý

Mới xây gia miếu tại Khang thôn.

Bia chùa Vĩnh Trường (Viên Thông tự bi ký) thuộc thôn

Vĩnh Trường, phường Lộc Vượng thành phố Nam Định. Chùa

này có 2 bia Vĩnh Tọ thứ 2 (1677) và thứ 4 (1679), bia Bảo

Đại. Tất cả các bia này đều nói: “Vĩnh Bình cổ đế hương dã,

Viên Thông cổ tự hiệu dã...” (Vĩnh Bình là nơi quê hương của

vua khi xưa có ngôi chùa cổ Viên Thông...)

Qua các nguồn tư liệu đã tập hợp trên có thể giả định thời

Lý khu Lộc Vượng, Lộc Hạ là khu trung tâm dân cư đông đúc,

phía bắc có thành giáp sông gần đất Tảo Môn, đông nam có

thành Ngô Xá, Nam Phong án ngữ làm thế ỷ dốc bảo vệ cho

thành Dương Xá là thành phố Nam Định ngày nay. về cương

vực cụ thể thì chưa có điều kiện nghiên cứu, vạch định rõ ràng,

xong tạm xếp vùng Tảo Môn Hữu Bị nơi huyện lỵ Mỹ Lộc cũ

là thành Vĩnh An, vùng Khang Kiện, Thiên Bồi, Vĩnh An là

Lộc Vượng, Lộc Hạ và Lộc Hoà. Mỹ Tân, Dương Xá là vùng

Vị Xuyên, Đông Mạc, Năng Tĩnh, Bình Giã là vùng Ngô Xá

Vấn Khẩu, Nam Phong, Qua Châu là vùng Lộc An Mỹ Xá...

Ngày 12 tháng Chạp Ấ Dậu (1226), Trần Cảnh lên ngôi vua

vói vương hiệu là Trần Thái Tông. Ngay từ buổi đầu lên ngôi báu

vua Trần đã nghĩ đến mảnh đất quý hương xưa là Dương Xá nay

là vùng đất Tức Mặc phường Lộc Vượng thành phố Nam Định.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư - kỷ nhà Trần ghi: “Tân Mão

năm thứ 7 (1231)... Mùa thu tháng 8 vua ngự đến hành cung

Tức Mặc làm lễ hưởng ở tiên miếu, ban yến cho các bô lão

trong hương và cho lụa theo thứ bậc khác nhau...” Đến năm

Kỷ Họd (1239) vào mùa xuân tháng giêng, triều đình hạ lệnh

cho Phùng Tá Chu^*^ giữ chức Nhập nội Thái phó, sai về cung

Tức Mặc dựng cung điện, nhà cửa. Đến năm 1262, vào tháng

hai (Nhâm Tuất), Thượng hoàng ngự đến hành cung Tức Mặc

ban tiệc to... đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường, cung

(1) Phùng Tá Chu (?- 1240 là con Phùng Tá Thang làm quan dưối triều Lý. Khi

Trần Cảnh lên ngôi, ban đầu để thưởng công cho các cựu thán nhà Lý đã phong

cho Phùng Tá Chu làm Thái phó, tước Hưng nhân vương, sau lại gia phong thêm

đại vương.

gọi là cung Trùng Quang. Lại làm cung riêng cho vua đương

triều đến chầu ở, gọi là cung Trùng Hoa. Lại lập chùa thờ phật

ở phía tây cung Trùng Quang gọi là chùa Phổ Minh. Từ đấy về

sau các vua nhường ngôi đến ngự ở cung này. Vì thế đặt sắc

dịch hai cung để hầu hạ, đặt quan lưu thủ để trông coi”. Như

vậy cung điện Tức Mặc chính thức được xây dựng vào năm

1239 do Phùng Tá Chu đốc thúc việc xây dựng. Đến năm 1258

sau khi đánh bại quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thái

Tông quyết định trao lại quyền hành cho Thái tử Hoảng. Thái

tử lên ngôi lấy vương hiệu là Trần Thánh Tông đóng đô ở

Thăng Long. Sau một thèd gian lưu lại Thăng Long để dìu dắt

vua con lo việc nước, chủ yếu là lo việc đối ngọai với quân

Nguyên phía bắc, Chămpa phía nam, Thượng hoàng lui về Tức

Mặc. Nói là nghỉ ngơi nhưng có thể đây là ý đồ chiến lược của

vua quan nhà Trần.

Như vậy năm 1262 nhà Trần đã thăng làng Tức Mặc lên

thành phủ Thiên Trường. Đây là một vùng đất rộng lớn bao

gồm thành phố Nam Định, các xã phía nam huyện Mỹ Lộc,

huyện Nam Trực tỉnh Nam Định và phía nam huyện Vũ Thư

tỉnh Thái Bình nay.

Bao quanh hai cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa còn có

các cung Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đê Tam và Đệ Tứ dành cho cung

tần mỹ nữ ờ để hầu cận Hoàng đế và hệ thống dinh thự của các

quan lại cao cấp như; Bảo Lộc của An Sinh Vương Trần Liễu,

Cao Đài của Thượng Tướng Thái sư Trần Quang Khải, Lựu

Phố của Thống Quốc Thái sư Trần Thủ Độ. Với việc xây dựng

hàng loạt các cung điện ở quê cũ, nhà Trần đã biến mảnh đất

Tức Mặc Thiên Trường thành kinh đô thứ hai một trong những

10

cơ quan đầu não chính trị của Đại Việt, một trung tâm văn hoá

của cả nước sau kinh đô Thăng Long. Lê Trắc một người sống

vào thế kỷ XIII đã mô tả về kinh thành như sau: " ở nơi ấy

nước thưỷ triều quanh thành, hoa cỏ bên bờ mùi hương xông

ngát, có những thuyền trang hoàng đẹp đẽ qua lại trên sông, y

như cảnh tiên vậy. ”

Hiạm Sư Mạnh một nhà thơ đương thời dưới triều Trần cũng

phải thốt lên:

Thành đô Tức Mặc như sông Giản sông Tiền xưa,

Nhân dân vui vẻ phong tục chất phát

Nước sông Vĩnh vây quanh toà điện chín tầng.

(Ghi lại việc hầu vua về Thiên Trường)

Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược,

nơi đây đã trở thành căn cứ quan trọng đé triều đình rút lui về

ẩn náu và bàn kế sách phản công chiến lược dẫn đến những

thắng lợi oanh liệt của vua tôi nhà Trần và quân dân Đại Việt.

Tức Mặc - Thiên Trường cũng chính là nơi ngự của các Thái

thượng hoàng nhà Trần, bên ngoài thì sống cuộc đời tu hành

nhàn hạ nhưng trong tâm trí vẫn lãnh đạo việc nước, hướng

dẫn chỉ bảo vua nối nghiệp quản lý đất nước trên mọi phương

diện.

Sau năm 1413, quân Minh sang xâm lược Đại Việt ta.

Chúng đã phá tan tất cả những cung vàng điện ngọc, những

điền trang thái ấp của phủ Thiên Trường xưa. Những con rồng

đá đặt ở trước cửa chùa Phổ Minh chúng cũng chặt mất đầu,

bởi theo chúng thì Đại Việt không có “đế” mà chỉ được xưng

vương thôi! Rồng là biểu thị của Hoàng Đế nên chúng chặt

11

đầu để triệt đường phát đế. Tại sân chùa Phổ Minh thuộc phủ

Thiên Trường, thời Trần có một chiếc vạc chất liệu bằng đồng

gọi “vạc Phổ Minh” đây là một trong An Nam tứ khí của nhà

nước Đại Việt thời Lý - Trần vậy mà giặc Minh vẫn đập vụn đổ

lấy đồng đúc thành vũ khí.

Duy chỉ có tượng phật trong chùa và ngôi tháp Phổ Minh là

chúng không dám phá. Những di tích thuộc phủ Thiên Trường

hiện nay đều được phục dựng từ thời Hậu Lê và thời Nguyễn.

Vùng đất Thiên Trường xưa hiện nay còn lại hai di tích đặc

biệt quý được xây dựng từ thời Trần đó là ngôi tháp chùa Phổ

Minh và sân cung điện Đệ Tứ.

2. Phủ Thiên Trường nay.

Những cung vàng, điện ngọc, những lầu son gác tía của

phủ Thiên Trường xưa chỉ còn trong ký ức của mỗi người. Trải

qua cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông và đặc biệt là

giặc Minh, cùng với thời gian... Chúng ta không còn thấy được

diện mạo của phủ Thiên Trường xưa. Ngày nay trên mảnh đất

thiêng - chốn tổ của các vua Trần còn sừng sững cây tháp Phổ

Minh. Đây là một công trình kiến trúc thcd Trần còn lại đến

nay tương đối nguyên vẹn nhất. Tháp Phổ Minh được xây dựng

vào đầu thế kỷ XIV (1305). Tháp xây bằng đá xanh và gạch

nung đỏ, cao 14 tầng (19m51) với trọng lượng khoảng trên 300

tấn. Đây là một công trình độc đáo tượng trưng cho hình tượng

hoa sen mọc giữa hồ sen, vươn cao lan toả tâm linh của thiền

phái Trúc lâm. Một thiền phái “Phật Việt Nam mang đậm bản

sắc văn hóa dân tộc”. Tháp Phổ Minh được xây dựng vào đời

vua Trần Anh Tông. Vua cha Trần Nhân Tông những năm làm

Thái thượng hoàng về ở phủ Thiên Trường và chùa Phổ Minh

12

là nơi Thượng hoàng thường nhật đến tu luyện, sau một số

năm Thượng hoàng Trần Nhân Tông vào tu luyện ở am Thái

Vi (thuộc Hoa Lư - Ninh Bình), sau người ra Yên Tử tu luyện

và trở thành vị sư tổ số 1 của thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân

Tông không chỉ đứng đầu một đạo phái phật Đại Việt mà còn

là một vị vua anh minh. Trong chiến tranh chống quân Nguyên

xâm lược, vua Nhân Tông là một nhà chiến lược và chỉ huy tài

giỏi. Ông là một vị vua nổi tiếng khoan hoà nhân ái đã xây

dựng được khối đại đoàn kết từ trong hoàng tộc đến ngoài

muôn dân. Nên vua Anh Tông đã cho xây bảo tháp để xá lỵ

của vua cha tại ngôi chùa làng - đất phật cũng là chốn quý

hương của các vua Trần.

Một di tích quý hiếm thứ hai thuộc phủ Thiên Trường là

“sân phủ Đệ Tứ”. Sân lát gạch vuông, gạch có cạnh 30cm mặt

gạch hình hoa cúc cách điệu, xung quanh có đường tròn viền

hoa chanh. Theo luận thuyết “trời tròn - đất vuông” của người

xưa: sân được xây dựng từ thời Trần, diện tích gạch ốp lát khá

rộng. Rất tiếc cho đến nay địa phương vẫn chưa phục dựng

được để đón khách tham quan.

Trên nền cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa xưa (nội

cung) nay là khu di tích đền Trần gồm có ba đền: Chính giữa là

đền Thiên Trường (còn gọi là đền Thượng) thờ 14 vị Hoàng đế

cùng các vị thuỷ tổ nhà Trần, bên phải là đền Cố Trạch (còn gọi

là đền Hạ) được xây dựng năm Thành Thái thứ 6 (1894) thờ

Quốc Công tiết chế Hưng Đạo Đại vương cùng gia đình và các

tướng lĩnh thân tín của ông. Bên trái là đền Trùng Hoa mới

được phục dựng năm 2000 với phong cách kiến trúc truyền

thống để thờ 14 Hoàng đế vói cách thể hiện chân dung, nhưng

13

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!