Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đề tài: Vị thế của các đồng USD qua các thời kỳ potx
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
------
BÀI TẬP NHÓM
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ NÂNG CAO
§Ò tµi: Vị thế của đồng USD qua các thời kì
Danh sách nhóm:
1. CQ500045 Đỗ Tuấn Anh
2. CQ501155 Lê Ngọc Huyền
3. CQ500710 Nguyễn Diệp Hà
4. CQ501372 Đỗ Minh Khuyên
5. CQ502209 Nguyễn Thị Thuý Quỳnh
Hà nội, 2011
1
Mục lục
Phần 1: cơ sở lý thuyết
1. Tiền tệ và chức năng của tiền tệ
1.1. Khái niệm tiền tệ
Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và
lưu thông hàng hóa. Trong thời kì đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy, với
2
công cụ sản xuất thô sơ, sản xuất chỉ nhằm tự cung tự cấp, khối lượng sản
phẩm ít ỏi. Khi đời sống cộng động phát triển, ý thức phân công lao động
được hình thành và lượng sản phẩm dư thừa làm nảy sinh quan hệ giao đổi
giwuax các thị tộc. Trong giai đoạn này, trao đổi mang tính ngẫu nhiên và
được thực hiện bằng cách trực tiếp H-H’. Đây là một bước tiến lớn để xã hội
công xã thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp. Tuy nhiên, hình thức mua bán
này có nhiều điểm bất tiện. Hai bên trao đổi mua bán phải có nhu cầu phù
hợp về hàng hóa, khối lượng hàng hóa, và phải thống nhất được tỷ lệ giá trị
hàng hóa trao đổi. Hình thức này chỉ phù hợp trong giai đoạn nền sản xuất
còn sơ khai và quan hệ trao đổi chưa mở rộng. Khi năng suất lao động được
nâng cao và hàng hóa trên thị trường trở nên phong phú và đa dạng, người ta
không giao đổi trực tiếp mà đặt ra vật trung gian làm phương tiện trao đổi:
H- vật trung gian- H’. Ban đầu vật trung gian được chọn là những hàng hóa
mang nét đặc trung phổ biến của từng vùng, sau đó đó vật trung gian là một
loại hàng hóa chung, được chấp nhận phổ biến. Vật trung gian đó trở thành
tiền tệ.
Tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức từ dạng hóa tệ, kim tệ (vàng
và bạc), và ngày nay chủ yếu là thời đại của tiền giấy và tiền ngân hàng là
loại tiền hoàn toàn dựa trên sự tín nhiệm mà không có vật đảm bảo.
1.2. Chức năng tiền tệ
1.2.1. Chức năng phương tiện giao đổi
Tiền thực hiện chức năng này khi đóng vai trò là phương tiện đáp
ứng cho nhu cầu lưu thông hàng hóa và các quan hệ giao dịch khác trong đời
sống kinh tế, xã hội. Để thực hiện chức năng này tiền phải được lưu thông
tức là phải được trao và được nhận trong quan hệ: H-T-H’. Chức năng này
3
của tiền bao gồm sự có mặt của tiền trong quan hệ mua bán trả tiền ngay (T
và H vận động song song), trong những quan hệ mua bán chịu (T và H vận
động tách rời) và ngay cả những quan hệ thành toán khác như thanh toán
lương, nộp thuế…
Chức năng phương tiện trao đổi là chức năng cơ bản của tiền tệ. Nó
không chỉ giúp chúng ta phân biệt giữa tiền với những tài sản khác như
chứng khoán, bất động sản mà còn biểu hiện một trạng thái động của tiền tệ
khi bộc lộ bản chất kinh tế vốn có. Thực hiện chức năng này, tiền tệ đã tạo
điều kiện cho quan hệ trao đổi hàng hóa trở nên thuận tiện. Giả sử không có
tiền tệ, chúng ta sẽ quay lại với hình thức trao đổi sản phẩm trực tiếp và như
vậy việc hao phí thời gian khi phỉa kiếm tìm một nhu cầu phù hợp về sản
phẩm trao đổi là tất nhiên, điều này sẽ làm hạn chế quá trình lưu thông hàng
hóa, đặc biệt trong điều kiện kinh tế có chuyên môn hóa cao và phân công
lao động ngày càng sâu sắc.
Đối với người sản xuất, khi hàng hóa tiêu thụ được nghĩa là chuyển
từ hình thái H sang hình thái T cho thấy hàng hóa sản xuất ra được thị
trường chấp nhận, giá trị hàng hóa được thực hiện. Mặt khác, giúp cho người
sản xuất bảo tồn được giá trị sản phẩm không bị xâm thực do điều kiện tự
nhiên. Với lượng tiền tệ đang sở hữu người ta có thể chuyển đổi ra bất kì
món hàng hóa nào để thỏa mãn nhu cầu. Nói cách khác tiền tệ đã tạo một
khả năng thanh toán tức thì và đây chính là ý nghĩa thiết thực của tiền tệ
trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
1.2.2. Chức năng thước đo giá trị
Với chức năng này, tiền tệ trở thành thước đo chung để biểu thị và
so sánh giá cả của tất cả hàng hóa, từ đó làm cho đời sống kinh tế được đơn
giản hóa. Bởi lẽ, trong nền kinh tế phát triển với sự tham gia của hàng nghìn
mặt hàng trên thị trường, nếu không có một đơn vị thanh toán chung người
4
ta sẽ tốn nhiều thời gian để xác định những quan hệ tỷ lệ giữa các hàng hóa
với nhau khi muốn thực hiện trao đổi. Khi có một đơn vị thanh toán chung,
người ta không chỉ quy định được mức giá hiện tại mà còn dự đoán cả giá trị
tương lai. Mặt khác, thông qua việc biểu hiện giá trị bằng thước đo chung,
tiền tệ còn tạo điều kiện để người ta có thể so sánh, đánh giá và lựa chọn các
loại hàng hóa trên thị trường.
Vận dụng chức năng này của tiền tệ đã giúp cho các doanh nghiệp
có thể hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất , tính giá thành sản phẩm và qua
đó đánh giá hiệu quả kinh doanh để chọn phương án đầu tư thích hợp. Hơn
nữa, ở tầm vĩ mô trong hệ thống kế toán quốc gia, đồng tiền với chức năng
thước đo giá trị đã được vận dụng để tính toán tổng mức GDP, GNP trong
từng thời kì. Từ đó, ngoài việc phục vụ cho qua trình phân phối tổng sản
phẩm quốc dân, tiền tệ còn giúp chúng ta đánh giá được hiệu quả của nền
kinh tế để có chiến lược khai thác và sử dụng hợp lý.
1.2.3. Chức năng phương tiện tích lũy
Đồng tiền không chỉ được sử dụng cho chi tiêu mà còn được thực
hiện tích lũy để đề phòng rủi ro trong tương lai hoặc tích lũy để tiêu dùng,
nghĩa là ta muốn chuyển nhu cầu tiêu dùng từ thời điểm này sang thời điểm
khác. Trước đây, trong chế độ lưu thông tiền kim loại, người ta tích lũy tiền
tệ như một dạng của cải xã hội nên việc chôn dấu kim loại quý trong chum,
lọ là phổ biến. Ngày nay, khi các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư mở rộng
sản xuất , dân cư có nhu cầu mua sắm sản phẩm có giá trị cao, người ta
thường tích lũy dưới dạng tiền tiền giấy hoặc số dư trên tài khoản kí quỹ ở
ngân hàng. Chức năng tiền tệ là phương tiện tích lũy cho phép người sở hữu
nó dự trù một sức mua cho các giao dịch tương lai.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, chức năng tích lũy này không chỉ có ở
tiền tệ mà phần lớn các tài sản dạng động sản, vật trang sức, chứng khoán
5
đều có thể đóng vai trò lưu trữ giá trị, thậm chí trong một số trường hợp như
nền kinh tế có phạm phát thì tích lũy một số dạng tài sản khác có tính ưu việt
hơn tiền mặt. Mặc dù vậy, đồng tiền thực hiện chức năng đã tạo điều kiện
lưu giữ một khả năng sử dụng ngay tức khắc (tính thanh khoản), trong khi
các dạng dự trữ tài sản khác đòi hỏi thời gian và chi phí giao dịch khi cần
chuyển sang tiền để sử dụng.
2. Chức năng tiền tệ quốc tế
Cũng như bất kì loại tiền tệ nào, một đồng tiền quốc tế cũng có 3
chức năng chính: được dùng để thanh toán hoạt động thương mại và tài
chính quốc tế, dùng để xác định giá cả, được tích trữ làm đồng tiền dự trữ
quốc tế. Nếu xét trên giác độ của chủ thể tham gia thị trường tài chính quốc
tế, đồng dollar có 6 chức năng. Đồng dollar được sử dụng làm phương tiện
thanh toán trong những giao dịch tư nhân hoặc làm phương tiện để ngân
hàng trung ương mua bán để điều tiết tỷ giá. Thước đo giá trị thể hiện ở việc
nhiều hợp đồng thương mại quốc tế được định giá bằng đồng dollar và một
số nước neo đồng tiền của mình vào đồng dollar. Cuối cùng, chức năng
phương tiện tích lũy được thề hiện ở việc chính phủ các nước tích trữ đồng
dollar hoặc các giấy tờ có giá bằng đồng dollar làm dự trữ quốc tế và cá
nhân dùng đồng dollar để đảm bảo giá trị tài sản của mình (một nguyên nhân
có thể dẫn tới hiện tượng dollar hóa)
Chức năng của
tiền
Chính phủ (ngân hàng trung
ương)
Tư nhân
Phương tiện trao
đổi
Phương tiện can thiệp tỷ giá Thanh toán trong giao
dịch quốc tế
6
Thước đo giá trị Cơ sở xác định giá trị của
nhiều đồng tiền
Xác định giá trị các hoạt
động thương mại và tài
chính
Phương tiện tích
lũy
Dự trữ quốc tế Đồng tiền thay thế (đô la
hóa)
Trong từng trường hợp cụ thế, việc phân tích những chức năng này
có thể được tiến hành theo chiều ngang hoặc chiều dọc. Trong chế độ bản vị
vàng, vàng thực hiện chức năng của tiền đối với chính phủ( vàng là cơ sở
xác định giá trị của các đồng tiền trên thế giới, vàng dùng làm dự trữ quốc tế
và chính phủ dùng vàng để điều chỉnh tỷ giá) và đồng bảng Anh( sterling)
thực hiện chức năng của tiền đối với cá nhân trong nền kinh tế. Trong cơ chế
tỷ giá “con rắn trong hang” của các đồng tiền châu Âu vào giữa những năm
70, các đồng tiền được neo giá lẫn nhau tuy nhiên đồng dollar vẫn được
dùng làm phương tiện can thiệp của chính phủ và làm dự trữ quốc tế. Thậm
chí chúng ta có thể tách biệt chức năng phương tiện trao đổi và thước đo giá
trị. Một ví dụ rất nổi tiếng là quốc gia vùng vịnh Persian năm 1974 đã ấn
định giá dầu của họ với đồng dollar nhưng lại chỉ chấp nhận thanh toán bằng
đồng bảng Anh.
2.1. Chức năng phương tiện trao đổi quốc tế
Đối với tư nhân, vai trò làm phương tiện trao đổi quốc tế của một
đồng tiền thể hiện bằng việc nó được dùng phổ biến trong việc thanh toán
giao dịch quốc tế. Nếu phân theo chủ thể tham gia giao dịch, giao dịch quốc
tế có thể chia thành 3 loại: thanh toán giữa những tổ chức phi tín dụng với
7
nhau, thanh toán giữa tổ chức tín dụng và tổ chức phi tín dùng, và thành tóan
giữa các tổ chức tín dùng.
Quan hệ giữa các tổ chức phi tín dụng với nhau chủ yếu là hoạt động
kinh doanh quốc tế. Ở đây, đồng dollar đóng vai trò thước đo giá trị: xác
định giá trị của các hợp đồng giao dịch, và sẽ được đề cập trong phần 2.
Trong quan hệ giữa các tổ chức phi tài chính và tổ chức tài chính, đồng
dollar không đóng vai trò đặc biệt nào. Một ngân hàng ở Thụy Điển có thể
bán đồng kronor (curon) để lấy đồng pesetas (đồng tiền của Tây Ban Nha)
hoặc ngược lại và không có sự tham gia gì của đồng USD. Đồng dollar thể
hiện chức năng phương tiện thanh tóan của mình là trong quan hệ thanh tóan
liên ngân hàng. “Gần như tất cả hoạt động giao dịch liên ngân hàng nào, dù
chủ thể tham gia ở trong nước hay quốc tế, đều có sự liên quan đến việc mua
bán đồng usd lấy một đồng tiền nước ngoài khác. Điều này đúng ngay cả khi
một ngân hàng dự định mua đồng mark bằng đồng bảng.” (Kubarych 1978,
p.18).
Đối với chính phủ phương tiên thanh toán của đồng tiền quốc thể
được họ sử dụng để can thiệp vào thị trường liên ngân hàng. Ngay cả cộng
đồng chung châu Âu cũng phải dùng đến đồng dollar để can thiệp tỷ giá
trong hệ thống tiền tệ của mình.
2.1.1. Cơ sở lý thuyết
Để hiểu rõ hơn việc quá trình dùng đồng tiền chung làm phương tiên
trao đổi quốc tế, ta xét mô hình 3 quốc gia.
Hình 1: mô hình thành toán giữa 3 quốc gia
8