Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đề tài nhánh Điều tra thực trạng sử dụng giống, cây trụ và nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác cây hồ tiêu vùng Tây Nguyên
PREMIUM
Số trang
427
Kích thước
7.7 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1068

Đề tài nhánh Điều tra thực trạng sử dụng giống, cây trụ và nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác cây hồ tiêu vùng Tây Nguyên

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Bé n«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n

ViÖn khkt n«ng nghiÖp miÒn nam

B¸o c¸o tæng hîp c¸c ®Ò tµi nh¸nh

Thuéc ®Ò tµi KH&CN cÊp nhµ n−íc

Nghiªn cøu c¸c gi¶i ph¸p Khcn vµ thÞ tr−êng

®Ó ph¸t triÓn vïng hå tiªu nguyªn liÖu phôc vô

chÕ biÕn vµ xuÊt khÈu

M∙ sè kc 06.04

Chñ nhiÖm ®Ò tµi: ts . nguyÔn t¨ng t«n

6495-1

04/9/2007

Tp. Hå chÝ minh - 2005

Bé n«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n

ViÖn khkt n«ng l©m nghiÖp t©y nguyªn

B¸o c¸o tæng hîp ®Ò tµi nh¸nh

®iÒu tra hiÖn tr¹ng sö dông gièng, c©y trô

vµ nghiªn cøu mét sè biÖn ph¸p kü thuËt

canh t¸c c©y hå tiªu vïng t©y nguyªn

Chñ nhiÖm ®Ò tµi nh¸nh: ts . t«n n÷ tuÊn nam

®¾k l¾k - 2005

- 1 -

PHẦN 1. MỞ ĐẦU

1.1 Đặt vấn đề

Tiêu là loại cây công nghiệp nhiệt đới, có giá trị xuất khẩu cao đem lại nhiều lợi

nhuận cho người trồng trọt. Tiêu được trồng ở nhiều vùng sinh thái của nước ta như ở

miền đồi núi đất đỏ Miền Trung (tỉnh Quảng Trị), vùng Đông Nam Bộ và các tỉnh Tây

Nguyên, trong đó Tây Nguyên là vùng có nhiều tiềm năng về đất đai, khí hậu để mở rộng

diện tích trồng tiêu.

Trong những năm gần đây diện tích và sản lượng hồ tiêu Việt Nam tăng đáng kể. Hiện

nay, đã trở thành nước xuất khẩu hồ tiêu lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 35% tổng xuất khẩu

thị trường nguồn hồ tiêu. Tuy diện tích, năng suất và sản lượng tương đối lớn, nhưng ngành

sản xuất hồ tiêu ở nước ta hiện nay chủ yếu là tự phát và trồng, chăm bón theo kinh nghiệm.

Do vậy người sản xuất gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng giống tiêu cũng như trong việc

áp dụng các kỹ thuật canh tác và vấn đề phòng trừ sâu bệnh hại trên cây tiêu.

Để hỗ trợ cho ngành xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam, tăng sức cạnh tranh trên thị

trường thế giới, đề tài "Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ và thị trường để

phát triển vùng nguyên liệu hồ tiêu phục vụ chế biến và xuất khẩu" Mã số KC.06.11.NN

do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam chủ trì được thực hiện từ năm 2001-

2005.

Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên là một trong năm cơ quan

phối hợp thực hiện đề tài, chịu trách nhiệm chọn tạo một số giống tiêu có triển vọng và

nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp nhằm sản xuất hồ tiêu vùng Tây

Nguyên theo hướng bền vững, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.

1.2 Mục tiêu đề tài

- Điều tra, nghiên cứu chọn lọc giống tiêu cho năng suất cao, chất lượng tốt, ổn

định trong điều kiện Tây Nguyên, có khả năng đề kháng một số bệnh hại chính trên cây

tiêu, nhất là bệnh vàng lá chết nhanh và chết chậm.

- Bước đầu đề xuất một số biện pháp canh tác và phòng trừ sâu bệnh hợp lý nhằm

canh tác tiêu đạt hiệu quả và duy trì tính ổn định cho vườn tiêu vùng Tây Nguyên.

- 2 -

PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1 Chọn lọc giống

Do đặc tính nhân giống vô tính là chủ yếu, giống tiêu tương đối nghèo nàn. Mỗi

vùng trồng tiêu chính thường chỉ có vài ba giống phổ biến. Theo Phan Hữu Trinh (1988)

cây tiêu được đưa vào canh tác tương đối quy mô ở vùng Hà Tiên nuớc ta vào đầu thế kỷ

thứ 19, sau đó được trồng ở nhiều vùng Đông Nam Bộ và ở Bắc Trung Bộ mà chủ yếu ở

tỉnh Quảng Trị là các vùng có độ cao so với mặt biển dưới 100 mét. Các giống trồng tiêu

được trồng trong thời gian này chủ yếu là các giống có nguồn gốc từ Campuchia và một

số giống địa phương không rõ nguồn gốc.

Năm 1947, giống Lada Belangtoeng có nguồn gốc Indonesia được nhập vào nước

ta từ Madagascar, được xem là giống có nhiều triển vọng và có khả năng chống bệnh rễ

(Phan Hữu Trinh, 1988).

Năm 1950, Nha Khảo cứu và Sưu tầm Nông Lâm Súc Miền Nam Việt Nam đã

khảo nghiệm việc trồng tiêu trên cao nguyên Bảo Lộc có độ cao trên 500m so với mặt

biển (Nguyễn Cao Ban, 1956). Sau sáu năm khảo nghiệm tác giả này đã khẳng định tiêu

hoàn toàn có thể sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất khá cao dưới điều kiện khí hậu

cao nguyên nước ta. Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của sáu giống tiêu:

Srechea, Kampot (lấy từ Cao Miên), tiêu Quảng Trị, tiêu Sơn (Pleiku), tiêu Di Linh và

giống Lada Belangtoeng, tác giả đã kết luận giống Lada Belangtoeng tỏ ra hợp khí hậu

vùng Bảo Lộc, sinh trưởng khỏe, ít bệnh tật, chùm tiêu dài, thơm cay. Các giống khác tỏ ra ít

thích hợp hơn.

Năm 1960 giống Lada Belangtoeng được đưa về trồng ở Quảng Bình, Vĩnh Linh

và giống cũng tỏ ra thích nghi với khí hậu vùng này, có nhiều ưu điểm về sinh trưởng,

năng suất và chống đỡ bệnh tật hơn giống Quảng Trị (Lê Minh Xuân, 1981; Lê Minh

Xuân & Nguyễn Văn Phấn, 1983).

Theo Trần Văn Hòa (2001) các giống tiêu có triển vọng phát triển ở nước ta gồm

giống sẻ địa phương vùng Đông Nam Bộ, các giống nhập từ Campuchia qua đường Hà

Tiên là Sréchéa, Kamchay, Kampot, Kep, giống Lada Belangtoeng từ Indonesia và

Panniyur-1 từ Ấn Độ.

- 3 -

Khi nói đến triển vọng cây tiêu xuất khẩu ở Miền Nam Việt Nam W. Tappan có

khuyến cáo nên du nhập bốn giống có ưu thế sau (1972, Nguyễn Phi Long trích dẫn,

1987): Balancotta, gốc Ấn Độ cho năng suất cao, Kalluvalli, gốc Ấn Độ cho trái to,

Kuching, gốc Malaysia cho năng suất cao, Lada Belangtoeng, nguồc gốc từ Indonesia sinh

trưởng khỏe, kháng bệnh rễ tốt. Chỉ trừ giống Belangtoeng được nhập vào trồng khảo nghiệm ở

nhiều vùng trong nước, các giống khác đã chưa được quan tâm nhập nội khảo sát một cách

chính thức. Nói tóm lại thì nghề trồng tiêu ở nước ta đang gặp phải những hạn chế nhất định về

giống.

Một số các nghiên cứu về lai tạo giống tiêu đã được tiến hành từ những năm 1936,

1949, 1953, 1955, 1961 bởi các tác giả Muller, Menon, Marinet, Gentry, Lim ở Ấn Độ,

một chương trình chọn giống nghiêm ngặt được thực hiện từ năm 1953 với mục đích chọn

tạo được các giống tiêu có khả năng cho năng suất cao và kháng được sâu bệnh. Nước này

đã phóng thích ra giống tiêu lai Panniyur- 1 nổi tiếng. Hiện nay các giống tiêu ở Ấn Độ

rất phong phú gồm cả giống chọn lọc và giống lai tạo, 42 giống tiêu với nguồn gốc và các

đặc tính về hình thái, năng suất, chất lượng đã được ghi nhận (B. Sasikumar, 1999).

Các vùng trồng tiêu chính như Indonesia và Malaysia (Sarawak) cũng đã rất chú

trọng tới công việc chọn tạo giống và đã đạt được những kết quả tốt. Giống Kuching được

trồng phổ biến ở Sarawak, có năng suất khá cao, tuy vậy giống này rất nhạy cảm với các

bệnh chính, đặc biệt là bệnh thối gốc do Phytophthora và bệnh đen quả. Năm 1988 và

năm 1991, trung tâm Sarawak đã phóng thích thêm được hai giống là Semongk perak và

Semongk emas. Hai giống này cho quả sớm sau khi trồng và kháng được bệnh đen quả.

Ngoài ra Semongok emas còn có ưu điểm ra hoa tập trung, chín đồng đều hơn, chỉ cần thu

hoạch 2-3 lần, so với Kuching phải thu 4-6 lần. Semongk perak tuy có phẩm chất thơm

ngon, năng suất cao trong những năm đầu kinh doanh nhưng kém bền vững sau vụ thứ ba

vì dễ nhiễm bệnh héo chết nhanh (Paulus and Wong, 2000)

- 4 -

2.2 Kỹ thuật canh tác

Tiêu là cây leo bám nên trụ tiêu đóng vai trò quan trọng trong đời sống cây tiêu.

Nhà vườn thường ưa sử dụng trụ gỗ chết vì cho rằng tiêu leo bám dễ dàng, không bị cạnh

tranh nước, dinh dưỡng, ánh sáng như khi trồng trụ sống và không bị nóng làm dây tàn lụi

sớm như khi trồng trụ bằng vật liệu xây dựng. Tuy vậy thực tế sản xuất hiện nay cho thấy

tiêu có thể đạt được năng suất cao trên tất cả các loại trụ, miễn là có chế độ chăm sóc phù

hợp. Các loại trụ sống rất phong phú như vông, keo, lồng mức, mít, muồng cườm, cóc

rừng, gòn gai đang được sử dụng nhiều ở các vùng trồng tiêu trọng điểm hiện nay như ở

Bình Phước, Quảng Trị, Phú Yên. Đặc biệt ở Quảng Trị do có gió Lào khô nóng, cây trụ

sống tỏ ra đặc biệt thích hợp cho việc trồng tiêu. Các thử nghiệm trồng tiêu trên trụ gạch không

mấy thành công ở vùng này.

Ở Ấn Độ, cây trụ gỗ chết vẫn còn được sử dụng phổ biến, ngoài ra còn cho tiêu leo

lên cây vông, anh đào, sồi lá bạc. Ở Indonesia, tiêu được cho leo lên các loại cây ăn trái,

các bức tường gạch, cây gòn cũng được dùng làm trụ phổ biến.

Kỹ thuật tạo hình để trụ tiêu có được hình dáng thích hợp và có nhiều cành ngang

mang quả là biện pháp kỹ thuật được quan tâm ở nhiều nước trồng tiêu. Tùy theo vật liệu

trồng ban đầu là dây thân hay dây lươn các biện pháp tạo hình cho tiêu có thể khác nhau.

Trồng bằng dây thân người ta thường dùng kỹ thuật cắt dây để tạo hình trong khi đó trồng

bằng dây lươn thường được áp dụng kỹ thuật đôn dây. Trong sản xuất hồ tiêu của nước ta

hiện nay số dây thân được giữ lại trên trụ tùy theo mật độ trụ, kích thước trụ và tập quán

trồng tiêu từng vùng. Nhiều vùng trồng tiêu khác như Bình Phước, Đắk Lắk, Gia Lai, sau

khi tiêu được cắt tạo hình một lần vào lúc tiêu 10-12 tháng tuổi thường để cho các mầm

phát triển tự do thành dây thân mới và số dây thân có thể biến động từ 6-15 dây trên trụ

gỗ, 20-40 dây trên trụ gạch xây. Do đặc tính ưa bóng nhẹ của hồ tiêu, nếu số dây thân trên

trụ ít không che chắn được nhau, tiêu có thể sinh trưởng kém, nhưng nếu số dây thân quá

dày, trong mùa mưa độ ẩm cao có thể là điều kiện tốt để nấm bệnh phát triển.

Ở Malaysia người ta đã khảo sát các kỹ thuật tạo hình theo ba phương pháp gọi là

Kuching, Sarikei, Semongok trong đó tiêu được cắt dây thân một hay nhiều lần để tạo độ

rậm rạp cần thiết. Sau bảy năm thí nghiệm, người ta đã kết luận không có sự khác nhau có

- 5 -

ý nghĩa giữa các phương pháp tạo hình mặc dù phương pháp Sarikei (dây thân được cắt

một lần vào sáu tháng sau khi trồng sau đó nuôi ba dây thân mới từ dây được cắt) cho

năng suất trội hơn cả. Chong và Shahmin (1981) chỉ ra rằng không có sự khác biệt có ý

nghĩa về năng suất giữa các cây tiêu có 3, 4 hoặc 5 dây thân. Trong một thí nghiệm khác,

Chong và Yau (1985) chỉ ra rằng trụ tiêu có năm dây thân cho năng suất cao hơn bảy hoặc

chín dây thân. Vì vậy tùy theo đường kính trụ tiêu người ta đã đề nghị số dây thân từ 3-5

dây.

Các nghiên cứu về chế độ bón phân cho cây hồ tiêu ở nước ta chưa nhiều. Lương

Đức Loan và Nguyễn Thị Thúy (1996) nghiên cứu tác dụng của kali và canxi cho cây hồ

tiêu trên đất nâu đỏ bazan đã khẳng định vai trò của các yếu tố này đối với năng suất tiêu.

Trên nền 100gN và 100gP205/trụ, mức bón kali cho năng suất cao nhất là 120gK2O/trụ,

tăng 51% năng suất so với đối chứng không bón. Nếu bón phối hợp kali với vôi thì hiệu

lực càng rõ hơn. Mức bón 500g vôi + 120-240gK2O/gốc năng suất đạt 2,01-2,21kg tiêu

đen/ha. Hiệu suất 1kgK2O đạt từ 4,33-12,33kg tiêu đen.

Theo Lê Đức Niệm (2001), lượng phân bón cho tiêu phụ thuộc vào giống, mật độ

khoảng cách trồng. Liều lượng áp dụng 184gN, 108gP2O5, 150g K2O/trụ/năm và bón kèm

10kg phân chuồng và 300g vôi.

Một số các tác giả khác cũng đã đưa ra các hướng dẫn bón phân cho hồ tiêu, tuy

vậy các hướng dẫn này thường căn cứ vào các kết quả điều tra trong sản xuất kết hợp với

sự phân tích lý thuyết về lượng dinh dưỡng cây cần hàng năm.

Ở các vùng trồng tiêu lớn trên thế giới, chế độ phân bón được khuyến cáo cho cây

hồ tiêu rất khác nhau căn cứ vào tính chất đất cũng như khả năng cho năng suất của vùng,

tuy vậy đã có sự thống nhất cho phân hữu cơ là loại phân cơ bản không thể thiếu được

trong kỹ thuật trồng tiêu.

Nghiên cứu về phân bón cho tiêu ở Bangka, Indonexia cho thấy nhu cầu phân bón

như sau: hàng năm cây hồ tiêu cần bổ sung lượng dinh dưỡng cho sự phát triển rễ, thân,

lá, cành trên một đơn vị ha là: 90-180kg N, 6,5-13kg P2O5, 90-142kg K2O, 62kg Canxi, 9-

19kg Mg (The Deward, 1964 và Sim, 1967). Như vậy theo nghiên cứu này thì lượng phân

- 6 -

cần cho một ha hồ tiêu là: 143-243kg N, 10-27kg P2O5, 127-202kg K2O, 68-86kg Ca, 12-

29kg Mg.

Wong (1986, Othman trích dẫn) xác định với mật độ trồng 1.600 trụ/ha, mỗi năm vườn

tiêu từ 3-8 tuổi hấp thu một lượng dinh dưỡng là 200kg N- 0kg P2O5-188kg K2O.

Theo Thomas Dierolf, Thomas Fairhurst and Ernst Mutert (2001), liều lượng N-P￾K cân bằng cho vườn tiêu có năng suất 3 tấn/ha là 400N-200P2O5-500K2O kg/ha/năm,

bón kèm 10 tấn phân hữu cơ và một lượng vôi nhất định. Nhiều nước thường khuyến cáo

sử dụng phân hỗn hợp NPK 12-12-17-2 MgO để bón cho hồ tiêu. Tỷ lệ bón được xác định

là: 2,5N-1P2O5-3,5K2O (Sổ tay sử dụng phân bón, 2000). Như vậy liều lượng lân sử dụng

thấp hơn hẳn đạm và kali.

Theo tài liệu của tổ chức Krishiworld (The pulse of Indian agriculture) tỷ lệ phân

bón thích hợp bón cho tiêu đầu kinh doanh là 1 N-1,6 P2O5- 0,6 K2O, ứng với mức bón

100g N- 160g P2O5- 60g K2O/trụ/năm.

Trong một thí nghiệm 33

(NPK) cho hồ tiêu trên đất đỏ tại Southern Bahia (Brazin)

người ta đã xác định liều lượng N và P205 cho năng suất tiêu cao nhất là 132kgN và 240kg

P2O5, không thấy ảnh hưởng có ý nghĩa của phân kali đến năng suất hồ tiêu trong thí

nghiệm này (Rafael, 1986).

Nghiên cứu tương quan giữa dinh dưỡng lá và năng suất tiêu đen (Nybe, E.V, 1989)

cũng đã xác định yếu tố P và K là ảnh hưởng mạnh nhất đến năng suất tiêu.

Theo khuyến cáo Hiệp hội nghiên cứu cây gia vị Ấn Độ, liều lượng phân bón áp

dụng cho cây tiêu trên đất đỏ vùng nhiệt đới có hàm lượng dinh dưỡng các nguyên tố

chính trong đất từ thấp đến trung bình là 140g N, 55g P2O5, 270g K2O kết hợp 600g vôi

và 10kg phân chuồng/trụ/năm. Tỷ lệ NPK được khuyến cáo áp dụng là 2,5-1-5, với mức

bón lân thấp, kali gấp hai lần phân đạm (Package of practices).

Nghiên cứu về ảnh hưởng của chất điều hoà sinh trưởng và chất vi lượng đến sự

rụng gié quả và năng suất hồ tiêu cũng đã được nhiều tác giả đề cập. Nồng độ thấp của

chất 2,4-D đã kích thích quả tiêu phát triển (Hariharan và Unnikrishnan, 1985). Phun IAA

ở nồng độ 50ppm, ZnSO4 ở nồng độ 0,5% đã làm rụng gié là 63,6 và 48,4% so với đối

chứng không phun (Geetha và Nair, 1990). Savi và Desai (1989) đã ghi nhận rằng phun

- 7 -

chất điều hoà sinh trưởng đã làm giảm rụng gié, tăng trọng lượng quả và tăng hiệu quả

kinh tế. Một nghiên cứu của IISR đã chỉ ra rằng đối với giống Subhakara và Sreekara bón

150:60:270 kg N: P2O5:K2O/ha kết hợp với Zn, B và Mo theo tỷ lệ 5:1:2 đã cho năng suất

hồ tiêu cao hơn không bổ sung vi lượng (IISR, 1997).

2.3 Phòng trừ sâu bệnh hại tiêu

Bệnh hại trên cây tiêu là một vấn đề cực kỳ khó khăn mà người sản xuất phải đối

đầu khi quyết định trồng tiêu. Một số loại sâu bệnh hại nguy hiểm có thể gây nên sự hủy

diệt cả vườn tiêu có thể kể đến là: rệp sáp hại rễ Pseudococcus citri, bệnh vàng lá chết

chậm do tuyến trùng Meloidogyne incognita và nấm Fusarium solani, bệnh vàng lá chết

nhanh do Phytophthora capsici.

Tuyến trùng hại hồ tiêu đã và đang là vấn đề nan giải ở nước ta. Tại hầu hết các

vùng trồng tiêu hiện nay, giải pháp phòng trị vẫn là dùng thuốc hóa học. Vì vậy xây dựng

qui trình phòng trừ tổng hợp tuyến trùng hại hồ tiêu để hạn chế tối đa việc dùng thuốc hóa

học độc hại là nhu cầu cấp bách (Nguyễn Ngọc Châu, 1995). Trong thực tế trên vườn tiêu

thường chỉ phát hiện tình trạng bệnh khi bộ lá có biểu hiện suy giảm nên việc chữa trị hay

chậm trễ, hiệu quả kém, dẫn đến tình trạng tiêu chết bệnh kéo dài trong sản xuất. Để phòng

trừ bệnh này có hiệu quả, cần thực hiện phương châm: “ Tích cực áp dụng những biện pháp

có tác dụng phòng bệnh, phát hiện sớm để trị bệnh kịp thời ” (Phạm Văn Biên, 1989).

Do vậy cần áp dụng tổng hợp đồng bộ các biện pháp như: biện pháp chọn giống,

biện pháp canh tác, biện pháp sinh học, biện pháp hóa học để khống chế nguồn sâu bệnh

hại dưới ngưỡng gây hại, bảo vệ được thiên địch, giữ cân bằng về mặt sinh học, không

gây ô nhiễm môi trường sinh thái.

Theo Phan Quốc Sủng (2001), Trần Văn Hòa (1999) giống tiêu Lada Belangtoeng

có khả năng kháng bệnh rễ tốt.

Phạm Văn Biên (1989) cũng cho rằng nên chọn trồng những giống có năng suất

khá và tương đối ít bệnh như: tiêu trung lá lớn, tiêu trung lá nhỏ, tiêu sẻ, tiêu Lada

Belangtoeng.

- 8 -

Các biện pháp canh tác cũng rất được chú trọng để ngăn ngừa các loại côn trùng,

nấm bệnh trong đất. Sarma et al (1989) nói: "Những bệnh sinh ra từ đất có thể phòng trừ

bằng kỹ thuật canh tác".

Biện pháp đầu tiên khi phát hiện có cây bệnh hiện diện trong vườn là loại bỏ và

tiêu hủy các bộ phận bị bệnh của dây tiêu. Đây là một khâu rất quan trọng để ngăn ngừa

sự lan truyền của bệnh (Phạm Văn Biên, 1989; Nguyễn Ngọc Châu, 1995).

Các biện pháp tủ gốc trong mùa nắng và thiết lập các hệ thống mương rãnh thoát

nước tốt cho vườn tiêu sẽ làm cho năng suất vườn cây được cải thiện (Phan Kim Hồng

Phúc, 2000) đồng thời hạn chế được tuyến trùng gây hại (Trần Văn Hòa, 1999).

Việc kết hợp bón phân hữu cơ và vô cơ một cách cân đối cho cây tiêu đã được

nhiều tác giả đề cập đến. Bởi vì phân hữu cơ ngoài các chất đa lượng, còn có các chất vi

lượng, có tác dụng cải thiện lý hóa tính đất, tăng khả năng thoát và giữ nước, hạn chế

được sự phát triển của một số tuyến trùng và nấm bệnh trong đất thông qua việc thúc đẩy

hoạt động của vi sinh vật đối kháng.

Theo De Waard (1979), việc sử dụng phân bón ở liều lượng 400kgN, 180kgP,

480kgK, 425kgCa và 112kgMg kết hợp tủ gốc có thể phòng bệnh vàng lá.

Các thí nghiệm bón phân chuồng ủ hoai cho tiêu tại Quảng Trị cho biết ở các công

thức bón phân hữu cơ đã làm giảm mật độ tuyến trùng Meloidogyne incognita so với đối

chứng không bón phân hữu cơ (Nguyễn Ngọc Châu, 1994).

Biện pháp sinh học cũng đang rất được chú trọng nghiên cứu để phòng trị các bệnh

nguy hiểm trên cây tiêu. Đây là biện pháp sử dụng những sinh vật hoặc những sản phẩm

của chúng để ngăn chặn hay giảm thiệt hại do vi sinh vật có hại gây ra.

- 9 -

PHẦN 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Điều tra hiện trạng sản xuất hồ tiêu tại Đắk Lắk và Gia Lai

3.1.1 Địa bàn điều tra

- Đắk Lắk: điều tra bốn huyện CưM’Gar, Cư Jut, Ea H’leo, Dak R'lâp.

- Gia Lai: huyện Chư Sê.

3.1.2 Phương pháp điều tra

- Sử dụng số liệu thu thập được từ các ban, ngành, phòng liên quan như: Phòng Nông

nghiệp và phát triển nông thôn, Trung tâm Khuyến nông, Hội nông dân.

- Phỏng vấn trực tiếp các hộ nông dân, kết hợp với đo đếm, khảo sát thực tế trên đồng

ruộng các chỉ tiêu nêu trên

3.1.3 Nội dung điều tra

3.1.3.1 Giống

- Quy mô điều tra: điều tra hai Đắk Lắk (gồm bon61 huyện CưM’Gar, Cư Jut, Ea H’leo,

Dak R'lâp) và Gia Lai (huyện Chư Sê)

Tại mỗi điểm điều tra (huyện), điều tra ngẫu nhiên các vườn tiêu ở hai độ tuổi: nhỏ hơn 5

tuổi và từ 5-10 tuổi. Mỗi độ tuổi điều tra 15 vườn. Mỗi vườn có diện tích từ 100 trụ trở

lên. Tổng số vườn điều tra: 5 điểm x 15 vườn x 2 độ tuổi =150 vườn.

- Chỉ tiêu điều tra:

+ Các giống được sử dụng ở mỗi địa phương và mức độ phổ biến của giống.

+ Phương pháp nhân giống.

+ Đặc điểm hình thái của giống, năng suất tiêu hạt.

+ Tình hình nhiễm sâu, bệnh của các giống.

3.1.3.2 Tình hình sử dụng trụ tiêu, kỹ thuật canh tác, sinh trưởng và năng suất tiêu

- Quy mô điều tra: điều tra hai Đắk Lắk (gồm bốn huyện CưM’Gar, Cư Jut, Ea H’leo,

Dak R'lâp) và Gia Lai (huyện Chư Sê)

Tại mỗi điểm, điều tra trên tất cả các loại trụ được sử dụng nhiều trong sản xuất ở hai độ

tuổi: giai đoạn kiến thiết cơ bản (KTCB) và giai đoạn kinh doanh (KD). Mỗi loại hình trụ

chọn từ 3-5 vườn ngẫu nhiên nhưng phải đại diện cho từng loại trụ để điều tra, diện tích

mỗi vườn yêu cầu tối thiểu phải hơn 50 trụ.

- 10 -

- Chỉ tiêu điều tra

+ Khả năng sinh trưởng của cây trụ sống

+ Khả năng sinh trưởng của cây tiêu

+ Mật độ, khoảng cách ứng với từng loại trụ

+ Đánh giá tổng quát tình hình sâu bệnh hại chính trên các loại trụ tiêu

+ Chế độ phân bón: chủng loại phân, số lượng, số lần, kỹ thuật bón

+ Chế độ tưới nước: lượng nước, số lần, kỹ thuật tưới

+ Kỹ thuật làm đất: làm bồn, xới xáo, đào mương, rãnh

+ Kỹ thuật làm giàn che năm trồng mới: che túp, làm giàn, các loại vật liệu thường được

sử dụng

+ Ưu, nhược điểm của từng loại trụ

+ Năng suất: Phỏng vấn năng suất thực thu trên vườn tiêu kinh doanh 5-15 năm tuổi, trung

bình ít nhất hai vụ thu hoạch

+ Tình hình sâu, bệnh hại chính trên các vườn điều tra

+ Phân tích hiệu quả kinh tế sản xuất tiêu trên các loại trụ

Tính hiệu quả kinh tế theo phương pháp phân tích kinh tế toàn phần (Whole budget) của Phan

Chí Thành trong đánh giá hệ thống nông nghiệp.

3.1.4 Thời gian thực hiện: năm 2001-2002

3.2 Đánh giá đặc tính sinh trưởng phát triển của một số ký hiệu giống tiêu trong điều

kiện đất đai, khí hậu ở Đắk Lắk

3.2.1 Năm bắt đầu thực hiện: 2001

3.2.2 Địa điểm: Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên

3.2.3 Quy mô: 0,36 ha

3.2.4 Vật liệu nghiên cứu: vườn tập đoàn giống tiêu gồm các ký hiệu giống tiêu thu thập

được trong sản xuất.

3.2.5 Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp theo dõi

- Các chỉ tiêu về sinh trưởng

+ Tốc độ sinh trưởng của các ký hiệu giống

+ Đường kính tán trụ tiêu được đo ở độ cao cách mặt đất 1-1,5m lúc cây tiêu đã phủ trụ

- 11 -

- Các chỉ tiêu về hoa, quả và năng suất, chất lượng hạt tiêu.

+ Tỷ lệ tươi/khô: mỗi mẫu giống lấy 5kg gié quả tươi khi thu hoạch rộ, tách quả, phơi khô

đến độ ẩm 13%, tính tỷ lệ tươi/khô, tính trung bình cho toàn vụ.

+ Năng suất hạt: năng suất thực thu từ 1-20 cây/mỗi ký hiệu tuỳ theo số cây được trồng

trong vườn tập đoàn của các ký hiệu.

+ Dung trọng hạt tiêu đen

- Các chỉ tiêu về sâu bệnh: Theo dõi tỷ lệ cây bị nhiễm các bệnh nguy hiểm như bệnh tiêu

điên (Virus), bệnh chết chậm (Pratylenchus), bệnh chết nhanh (Phytophthora). Hai tháng

quan trắc một lần tất cả các cây có trong vườn tập đoàn.

3.3 So sánh một số giống tiêu trong điều kiện Tây Nguyên

3.3.1 Năm bố trí thí nghiệm: 2002

3.3.2 Địa điểm: Viện KHKTNLN Tây Nguyên

3.3.3 Quy mô: 0,18ha

3.3.4 Vật liệu và điều kiện thí nghiệm

Các giống tiêu được trồng vào tháng 8/2002 với mật độ 2x2,5m, trên đất bazan bằng

phẳng, độ phì trung bình. Tiêu trồng bằng hom thân năm mắt, sử dụng trụ đúc bê tông, có

cây che bóng là keo dậu được trồng cùng lúc với tiêu, mật độ 2,5x2m.

3.3.5 Công thức thí nghiệm và phương pháp bố trí

Các công thức gồm năm giống tiêu là Lộc Ninh, Vĩnh Linh, LaDa, Ấn Độ, Sẻ Mỡ. Thí

nghiệm bố trí kiểu khối đầy đủ, ngẫu nhiên, sáu lần lập lại, ô cơ sở gồm 10 trụ.

3.3.6 Chỉ tiêu theo dõi: Sinh trưởng phát triển cành, đốt, tốc độ leo bám, dạng tán, năng

suất và sâu bệnh hại theo từng giống. Quan trắc cố định 18 trụ cho một giống.

3.4 Khảo nghiệm trồng tiêu trên các loại trụ khác nhau trong điều kiện Tây

Nguyên

3.4.1 Năm bắt đầu thực hiện: 2002

3.4.2 Địa điểm: Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây nguyên, Đắk Lắk

3.4.3 Diện tích: 0,8 ha

3.4.4 Vật liệu thí nghiệm: giống tiêu Vĩnh Linh, trồng tiêu bằng hom thân năm mắt, có

nguồn gốc sạch bệnh. Các loại trụ sống trồng với khoảng cách 2,5x2,5m, mật độ 1600

- 12 -

trụ/ha, có sử dụng trụ tạm cao 2,5m bằng gỗ tạp. Trụ gốm tròn và trụ đúc bê tông vuông

cạnh trồng với khoảng cách 2,5x2,5m, mật độ 2.500 trụ/ha.Trụ gạch trồng với khoảng

cách 3x3m, mật độ 1.100 trụ/ha. Dây tiêu trồng cùng năm với trụ, trên trụ gạch trồng 6

hom thân/trụ, các loại trụ khác trồng 2 hom thân/trụ.

3.4.5 Công thức thí nghiệm và phương pháp bố trí

Công thức 1: Trụ đúc bê tông

Công thức 2: Trụ gạch

Công thức 3: Trụ gốm

Công thức 4: Trụ keo Cuba (Leucaena leucocephala)

Công thức 5: Trụ muồng cườm (Adenanthera povonina)

Công thức 6: Trụ trôm mủ (Stercuba foctidal)

Công thức 7: Trụ chùm ngây (Moringa oleifera Lamk)

Công thức 8: Trụ núc nác (Oroxylum indicum)

Các công thức được bố trí theo khối đầy đủ ngẫu nhiên, ba lần nhắc lại, ô cơ sở có diện

tích 480m2

. Các công thức trụ sống được bố trí liền kề, trụ chết được bố trí liền kề nhau

trong thí nghiệm để tạo điều kiện tiểu khí hậu riêng của hai loại trụ sống và trụ chết.

3.4.6 Chỉ tiêu theo dõi

+ Khả năng sinh trưởng, phát triển của cây trụ sống.

+ Khả năng sinh trưởng của cây tiêu: theo dõi chiều cao, đường kính tán tiêu, số cành cấp

1, cấp 2 và chiều dài cành cấp 1 (độ cao 0,5-1,5m).

+ Tình hình bệnh hại chính trên cây tiêu.

+ Năng suất tiêu trên các loại trụ.

3.5 Mô hình khảo nghiệm biệp pháp tỉa cành cho cây trụ sống

3.5.1 Năm bắt đầu thực hiện: 2002

3.5.2 Địa điểm: Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây nguyên, Đắk Lắk

3.5.3 Diện tích: 0,3 ha

3.5.4 Công thức: gồm năm công thức cây trụ sống và hai mức độ tạo tỉa cây trụ.

- Cây trụ sống: Trụ vông gai, anh đào, muồng cườm, núc nác, keo dậu.

- Biện pháp tạo tỉa

- 13 -

+ Tỉa nhẹ: mỗi năm tỉa hai lần vào đầu mùa mưa và tháng 8. Để lại 1-3 cành trên ngọn

vào lần tỉa đầu.

+ Tỉa đau: mỗi năm tỉa ba lần vào tháng 5, 8, 10. Khi cây đạt độ cao 4-4,5m tiến hành

hãm ngọn trong lần tỉa đau đầu mùa mưa.

Bố trí mô hình khảo nghiệm không có lần nhắc lại.

3.5.5 Chỉ tiêu theo dõi

+ Sinh trưởng cây trụ sống

+ Sinh trưởng, phát triển cây hồ tiêu

+ Một số các chỉ tiêu tiểu khí hậu trong vườn tiêu

+ Năng suất hồ tiêu

3.6 Xác định mật độ dây tiêu thích hợp cho một số loại trụ

3.6.1 Năm bắt đầu thực hiện: 2002

3.6.2 Địa điểm: Viện KHKTNLN Tây nguyên

3.6.3 Diện tích: 0,5 ha

3.6.4 Vật liệu thí nghiệm

Trụ đúc, trụ gốm: trồng với mật độ 2.500 trụ/ha (2x2m). Trụ đúc có kích thước

14cm/cạnh ở gốc và 12cm ở ngọn, trụ cao 3,5m kể từ mặt đất. Trụ gốm tròn có đường

kính 20cm, cao 2,8 m kể từ mặt đất.

Trụ xây: trồng với mật độ 1.100 trụ/ha, (3x3m). Trụ có đường kính 80cm ở gốc và

40cm ở ngọn, cao 3m kể từ mặt đất.

Trụ sống keo dậu: trồng với mật độ 1.600 trụ/ha (2,5x2,3m), tiêu trồng cùng năm

với trụ keo dậu, có trồng trụ gỗ tạm để tiêu leo bám trong hai năm đầu. Hãm ngọn trụ keo

dậu ở độ cao 5m và năm thứ ba sau khi trồng.

Tiêu được trồng 7/2001 trên đất bazan nâu đỏ, bằng phẳng, tháng 8/2002 cắt tạo

hình cách mặt đất 40-50cm. Giống tiêu trồng trong thí nghiệm là giống Vĩnh Linh.

3.6.5 Công thức thí nghiệm và phương pháp bố trí thi1 nghiệm

+ Trụ đúc: gồm 5 công thức

5 dây/trụ (12.500dây/ha) ứng với khoảng cách dây/trụ ở độ cao 1m là 10,4cm

6 dây/trụ (15.000dây/ha) ứng với khoảng cách dây/trụ ở độ cao 1m là 8,6cm

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!