Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đề tài gia đình trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng sau 1975 từ góc nhìn văn hóa
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ HỒNG LIÊN
ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG
SAU 1975 TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ HỒNG LIÊN
ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG
SAU 1975 TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Diệu Linh
THÁI NGUYÊN - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều
có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng
được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng Liên
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn Thạc sĩ này, trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám
hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí - Truyền thông và Văn học, Trường Đại học Khoa học,
Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn TS.
Nguyễn Diệu Linh đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các quí Thầy Cô trong Hội đồng chấm luận văn đã dành
thời gian đọc và đóng góp ý kiến giúp cho bài luận văn được hoàn chỉnh hơn. Trong quá trình
viết luận văn, khó tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của quí Thầy Cô và bạn đọc.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng Liên
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...............................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN.....................................................................................................................ii
MỤC LỤC..........................................................................................................................iii
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề.................................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................................11
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................12
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................13
7. Cấu trúc luận văn..........................................................................................................13
NỘI DUNG.......................................................................................................................14
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.......................................................................14
1.1. Gia đình và văn hóa gia đình người Việt ................................................................14
1.1.1. Khái lược về gia đình.............................................................................................14
1.1.2. Văn hóa gia đình người Việt .................................................................................18
1.1.3. Gia đình trong tâm thức người Việt .....................................................................24
1.2. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam hiện đại...................................................29
1.2.1. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ..................................................................................................................29
1.2.2. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm
1945 đến 1975...................................................................................................................33
1.2.3. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam sau 1975..............................................36
Tiểu kết chương 1.............................................................................................................40
Chương 2: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA
VĂN KHÁNG SAU 1975...............................................................................................41
2.1. Những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình...................................................41
2.1.1. Sự gìn giữ nề nếp gia pháp, gia phong ................................................................41
iv
2.1.2. Lối sống yêu thương, nhân ái, bao dung..............................................................45
2.1.3. Luôn khát khao và có niềm tin vào cuộc sống.....................................................50
2.2. Nét đẹp trong văn hóa ứng xử..................................................................................54
2.2.1. Ứng xử trong quan hệ bố mẹ - con cái.................................................................55
2.2.2. Ứng xử trong quan hệ vợ - chồng.........................................................................58
2.2.3. Ứng xử trong quan hệ anh chị em........................................................................62
2.3. Những đổi thay trong văn hóa gia đình người Việt hiện đại.................................65
2.3.1. Bi kịch gia đình từ nỗi đau hậu chiến ..................................................................65
2.3.2. Sự rạn nứt gia đình bởi mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thị dân........69
2.3.3. Nỗi cô đơn của con người trong gia đình hiện đại.............................................75
Tiểu kết chương 2.............................................................................................................79
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN VĂN HÓA
GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG SAU 1975..........80
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đa tính cách với đời sống nội tâm phong phú ....80
3.1.1. Nhân vật đa tính cách............................................................................................80
3.1.2. Nhân vật với đời sống nội tâm phong phú...........................................................88
3.2. Cách xây dựng cốt truyện mang tính xung đột văn hóa ........................................90
3.2.1. Những xung đột về chuẩn mực, giá trị đạo đức trong gia đình hiện đại .........90
3.2.2. Hệ thống tình huống truyện làm nổi bật tính cách nhân vật..............................95
3.3. Sự phong phú, đa dạng trong việc sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu ...................99
3.3.1. Sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ văn hóa dân gian và mang đậm nhãn quan
phong tục tập quán ...........................................................................................................99
3.3.2. Giọng điệu giàu cảm xúc và mang tính triết lý .................................................106
Tiểu kết chương 3...........................................................................................................112
KẾT LUẬN.....................................................................................................................113
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................115
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Gia đình được coi là nơi lưu giữ và phát triển các giá trị truyền thống từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình Việt Nam luôn chú trọng việc xây dựng gia
đạo, gia phong và gia lễ. Chính vì vậy văn hóa gia đình giàu tính nhân văn, đề cao
những giá trị đạo đức của mỗi con người. Sau năm 1975, sự giao lưu hội nhập
đem đến cho gia đình Việt Nam nhiều cơ hội phát triển về kinh tế, từ đó nâng cao
đời sống tinh thần. Gia đình Việt Nam thời kỳ hiện đại đã góp phần thúc đẩy sự
phát triển của đất nước tiến đến mục tiêu dân giàu - nước mạnh - xã hội công
bằng, văn minh. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó, gia đình Việt Nam
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, sóng gió.
1.2. Văn hóa gia đình là một bộ phận hợp thành của nền văn hóa Việt Nam.
Gia đình với những sợi dây liên kết phức tạp, cùng những giá trị văn hóa - đạo
đức đã trở thành một đề tài lớn của văn học Việt Nam qua từng chặng đường
phát triển. Từ những tác phẩm đầu tiên viết về đề tài gia đình của Tự lực văn
đoàn đến những tác phẩm đương đại, các giá trị của văn hóa gia đình đã được
nhiều cây bút khai thác rất thành công. Với những tác phẩm viết về đề tài gia
đình trong văn học sau 1975, các nhà văn đã đi sâu vào những mối quan hệ gia
đình nhiều chiều của mỗi gia đình trong thời kỳ hội nhập. Trong đó, đời sống cá
nhân của con người được đề cao. Lúc này, văn học thể hiện rõ vai trò đối với cá
nhân - gia đình một cách trọn vẹn.
1.3. Ma Văn Kháng là tác giả có vị thế quan trọng trong văn xuôi và trong
văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã để lại dấu ấn riêng đầy cá tính sáng tạo trong
tiến trình đổi mới nền văn học dân tộc. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, khi
đất nước đang trong thời kỳ “đêm hôm trước” và trong những ngày đầu đổi mới,
Ma Văn Kháng đã dám “nhìn thẳng vào sự thật” và “nói rõ sự thật” về những
đổi thay vừa hừng hực khí thế, vừa day dứt, trăn trở và vật vã, đau xót. Trong
sáng tác của ông, nhất là một số tiểu thuyết tiêu biểu thuộc giai đọạn sau 1975,
2
những giá trị gia đình vừa mang tính truyền thống, vừa có những biến động và
mất mát bởi những tác động của mặt trái thời kinh tế thị trường với các giá trị
văn hóa ngoại lai của chủ nghĩa hậu hiện đại.
1.4. Trong nhà trường THPT hiện nay, đoạn trích tái hiện lại khung cảnh
đón Tết của gia đình ông Bằng trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của
Ma Văn Kháng được đưa vào chương trình với thời lượng từ một đến hai tiết.
Trong dự thảo đổi mới chương trình, tác phẩm này cũng vẫn được nhắc tới để
giáo viên lựa chọn dạy và học. Dù còn khiêm tốn nhưng trong số những tác giả,
tác phẩm văn chương sau năm 1975 thì Ma Văn Kháng và tác phẩm của ông vẫn
là một lựa chọn không thể bỏ qua.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Đề tài gia đình trong tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng sau 1975 từ góc nhìn văn hóa làm đối tượng nghiên
cứu cho luận văn của mình với mong muốn tìm hiểu gia đình trong xã hội hiện
đại từ góc độ văn hóa. Đồng thời thấy được những giá trị nghệ thuật trong các
tác phẩm viết về gia đình và những đóng góp của nhà văn ở chặng đường sáng
tác sau 1975 về một mảng đề tài không phải là mới mẻ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng sau 1975
Ma Văn Kháng là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Ông sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936, tên khai sinh là Đinh Trọng Đoàn, quê ở
Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội. Bước vào tuổi thiếu niên (15 tuổi), Ma Văn Kháng
đã trở thành một chiến sĩ vệ quốc quân, được cử đi học ở Khu học xá Nam Ninh,
Trung Quốc. Năm 1963, ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm, đi dạy học ở vùng đất
Tây Bắc rồi chuyển sang làm báo, từng giữ chức Phó Tổng biên tập báo Lai
Châu. Từ năm 1976, ông chuyển về công tác tại Hà Nội, đảm nhiệm chức vụ
Phó Giám đốc - Tổng biên tập NXB Lao động. Từ năm 1995, Ma Văn Kháng là
Ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên đảng đoàn Hội Nhà văn khóa V, Tổng biên tập
tạp chí Văn học nước ngoài. Vào những năm 60, bút danh Ma Văn Kháng đã tạo
3
cho người đọc sự chú ý đặc biệt. Trong số các nhà văn hiện đại Việt Nam, ông là
người gắn với vùng đất biên ải trong một thời gian khá dài (1964 - 1976). Vì
vậy, lấy bút danh Ma Văn Kháng có lẽ chính là cách để nhà văn ghi nhớ những
kỷ niệm không thể nào quên về một thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, không ngại
gian khó, lăn lộn với công việc dạy học nơi bản làng và bày tỏ niềm tri ân sâu
nặng của mình đối với đồng bào các dân tộc vùng cao. Với những đóng góp tích
cực cho sự vận động và phát triển nhiều mặt của văn học nghệ thuật, Ma Văn
Kháng được tặng giải thưởng Văn học ASEAN năm 1998 và giải thưởng Nhà
nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Ma Văn Kháng cầm bút từ sớm, nhưng phải đến thập kỉ 80 của thế kỉ XX,
ông mới thực sự trở thành một hiện tượng trong đời sống văn học nước nhà.
Ngay từ những tiểu thuyết đầu tiên đến giai đoạn sau 1975 như Đồng bạc trắng
hoa xoè (1979), Mưa mùa hạ (1982), Vùng biên ải (1983), Mùa lá rụng trong
vườn (1985), Côi cút giữa cảnh đời (1989), Đám cưới không có giấy giá thú
(1989), Chó Bi, đời lưu lạc (1992), Một mình một ngựa (2007)…, Ma Văn
Kháng đã được đông đảo dư luận, độc giả và các nhà phê bình quan tâm. Có thể
thống kê tới hàng trăm bài báo - tạp chí, các giáo trình nghiên cứu trực tiếp hoặc
gián tiếp về Ma Văn Kháng và tác phẩm của ông, tiêu biểu như: Bích Thu
(2002), Nhà văn tóc bạc và những vấn đề của cuộc sống đương đại, Báo Văn
nghệ, số 10 (tr.17-23); Trần Minh Hiếu (2006), Ma Văn Kháng với đời sống
đương đại, Văn hóa nghệ thuật, số 5 (tr 88-93); Tư duy mới về nghệ thuật
trong sáng tác của Ma Văn Kháng trong những năm 80, Tạp chí Văn học số 2
(tr 51-57); Mai Thị Nhung (2008), Giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời
kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 10 (tr. 89-
97);...Ngoài ra, phải kể đến nhiều công trình nghiên cứu, phê bình về Ma Văn
Kháng trong các tuyển tập của các nhà nghiên cứu đầu ngành như: Phong Lê, Lã
Nguyên, Tô Hoài, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Ngọc Thiện...đã được đăng tải trên
nhiều báo, tạp chí và tập hợp trong các cuốn sách, cuốn giáo trình…
4
Những năm gần đây, Ma Văn Kháng và các tác phẩm của ông trở thành đối
tượng nghiên cứu trong nhiều luận văn, luận án như: Lê Thanh Hùng (2006),
Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới (1980 - 1989), Luận văn Thạc sĩ,
Đại học sư phạm Thái Nguyên; Nguyễn Minh Chung (2007), Tiểu thuyết Ma
Văn Kháng thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ, Đại học khoa học xã hội và nhân
văn, Hà Nội; Trần Thị Phi Nga (2008), Đặc trưng tiểu thuyết thế sự của Ma
Văn Kháng, Luận văn thạc sĩ - Đại học Sư phạm T.P Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị
Phương Thảo (2011), Tiểu thuyết về đề tài miền núi của Ma Văn Kháng, Luận
văn thạc sĩ - Đại học Đà Nẵng; Đỗ Phương Thảo (2007), Nghệ thuật tự sự trong
sáng tác Ma Văn Kháng (Qua một số tác phẩm tiêu biểu), Luận án tiến sĩ, Đại
học Sư phạm Hà Nội; Nguyễn Thị Quất (2013), Nhân vật người trí thức trong
tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã
hội nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội…Tất cả các công trình này đều hướng
tới việc khẳng định sự tiếp nối, phát huy và đổi mới của Ma Văn Kháng trên các
phương diện: đặc trưng thể loại, đề tài và chất liệu văn học, vấn đề nhân vật và
nghệ thuật viết tự sự...Với những tác phẩm viết về cuộc sống con người miền
núi (đề tài nổi bật trong các sáng tác trước năm 1975 của Ma Văn Kháng), nhà
văn được đánh giá là đã thành công trong việc phản ánh hiện thực, ca ngợi hình
ảnh cao đẹp của các cán bộ miền xuôi với sự cống hiến hết mình trong công
cuộc giải phóng vùng biên ải; khắc họa chân thực hình ảnh những con người
miền núi thuần hậu mang trong mình nỗi cay đắng tủi nhục, chịu áp bức, bóc lột
và phong tục lạc hậu, mê muội. Tuy nhiên nhà văn cũng phát hiện và khẳng định
vẻ đẹp tình yêu và khát vọng sống tiềm tàng mãnh liệt trong tâm hồn họ...
Nghiên cứu tiểu thuyết viết về đề tài miền núi của Ma Văn Kháng sau
1975, đặc biệt khi nhận xét về tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe, tác giả Trần
Đăng Suyền cho rằng: “Ma Văn Kháng, bằng hình tượng nghệ thuật, đã chứng
minh rằng đồng bào các dân tộc ít người, mặc dù bị chìm đắm trong đau khổ,
tăm tối nhưng đều có mầm sống, khả năng cách mạng” [63, 13]. Tìm hiểu về đề
5
tài này trong sáng tác của Ma Văn Kháng, Nguyễn Ngọc Thiện cũng khẳng
định: “Cuốn tiểu thuyết Gió rừng (1977), Đồng bạc trắng hoa xòe (1979),
Vùng biên ải (1983)…là một sự hội tụ, kết tinh cao độ vốn sống về con người và
cuộc sống miền núi, mà ông tích lũy suốt hơn 20 năm gắn bó với nó” [81, 57].
Có thể nói, 11 năm ròng dạy học nơi vùng cao “đã tích tụ trong Ma Văn Kháng
một vốn liếng quý giá vô ngần, chín dần qua năm tháng mãi về sau, trở thành
trầm tích, thành mỏ vàng trữ lượng luôn dồi dào” [99].
Không chỉ thành công ở mảng tiểu thuyết viết về đề tài miền núi, sau
những năm 80, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Ma Văn Kháng lại cho ra
đời hàng loạt tiểu thuyết đời tư - thế sự như Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng
trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh
đời (1989), Chó Bi đời lưu lạc (1992)…Với các tác phẩm này, Ma Văn Kháng
được coi là một trong những cây bút tiên phong đã khơi lại mạch viết về gia
đình vốn bị ngưng đọng gần nửa thế kỷ trong văn học Việt Nam hiện đại. Đây
cũng chính là một trong những mảng sáng tác thành công nhất của ông.
Tiểu thuyết đầu tiên như một dấu mốc đánh dấu bước chuyển trong đời văn
Ma Văn Kháng trong giai đoạn này là Mưa mùa hạ: “Tiểu thuyết (Mưa mùa
hạ) khi xuất hiện trên văn đàn đã gây sự ngỡ ngàng, xôn xao dư luận về cả đề
tài lẫn vấn đề được đề cập trong tác phẩm. Thứ nhất: một nhà văn chuyên đi
vào đề tài đấu tranh, cuộc sống con người ở miền núi nay bỗng nhiên lại chuyển
sang mảng thị thành rất tự nhiên. Thứ hai là những con người tốt, lương thiện
lại có kết cục buồn, bi thảm” [53, 12]. Tác phẩm được nhà phê bình Vân Thanh
đánh giá cao vì “Đã thể hiện cách nhìn, thái độ của các nhân vật trước những
hiện tượng tiêu cực trong xã hội” [72, 3]. Bên cạnh đó, Vân Thanh cũng cho
thấy từ trong những trang sách vang lên một tiếng giục giã, đánh thức lương
tâm, trách nhiệm của mỗi người: “bằng bất cứ giá nào cũng phải ngăn chặn kịp
thời những tổ mối tiêu cực đang sinh sôi nảy nở trong đời sống nếu không chúng
sẽ đục ruỗng xã hội và hủy hoại những giá trị tinh thần vốn đã thành truyền
6
thống của dân tộc” [72, 3]. Điều đó thể hiện ý thức trách nhiệm của Ma Văn
Kháng đối với cuộc sống hiện đại. Chính nhà văn đã từng bộc bạch: “Tôi không
có được cái dự cảm rằng mình đã là một nhà văn dũng cảm, không sợ các nhà
phê bình, không ngại dư luận, rằng mình là kẻ dám nhìn thẳng vào sự thật,
trong khi hình thành ý định và sáng tác tiểu thuyết Mưa mùa hạ” [87, 112].
Những tiểu thuyết như Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy
giá thú,...vẫn tiếp nối đề tài về thành thị. Ngòi bút tinh tế, sáng tạo của nhà văn
đã phản ánh chân thực những thân phận giữa đời thường, thẳng thắn phơi bày sự
tha hóa đạo đức của con người trong xã hội ở mức độ cao hơn: “Bằng cách nhìn
tinh tế vào hiện thực đời sống, tác giả đã mô tả những người giáo viên sống và
làm việc gặp quá nhiều khó khăn. Những vui buồn của thời thế đã phản ánh vào
những trang tiểu thuyết trở nên sống động, hấp dẫn” [101]. Theo tác giả Lê
Ngọc Y, Ma Văn Kháng “đã có cái nhìn hiện thực, tỉnh táo nên không bị thói
xấu, cái bất bình thường vốn nảy sinh trong xã hội đang vận động lấn át, hoặc
chỉ, thấy một chiều này u ám mà không thấy chiều khác đầy nắng rực rỡ” [101].
Còn Nguyễn Thu Thủy trong công trình luận văn của mình đã bày tỏ quan điểm:
“Đa số các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng luôn có giọng suy tư bùi ngùi xen lẫn
với đắng cay chua xót. Ngòi bút của ông luôn soi tìm, đào sâu vào tâm hồn con
người, từ đó phát hiện ra những tâm tư, tình cảm, phẩm chất của từng cá nhân”
[83, 179].
Những công trình chuyên luận nghiên cứu trên đây cùng với nhiều bài báo,
tạp chí có chung định hướng và nội dung nghiên cứu, dù nhiều, dù ít đều đề cập
đến các mối quan hệ, những nhân vật, những vẻ đẹp văn hóa đạo đức và cả
những tổn thương, sa đọa, đổ vỡ, mất mát có khi rất đau đớn, nghiêm trọng và
phũ phàng trong các trang văn của Ma Văn Kháng. Đồng thời ta cũng thấy rõ cái
nhìn tiến bộ, mới mẻ của nhà văn. Tất cả những nhận xét, đánh giá sâu sắc và
khách quan về các tác phẩm sau 1975 của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn khác
nhau, đều nhằm khẳng định những đóng góp và thành công của ông trong tiến