Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đánh giá sức cản động mạch phổi (PVR) bằng phương pháp siêu âm- Doppler tim ở bệnh nhân hẹp hai lá (HHL) khít trước và sau nong van bằng bóng
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
1
bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé y tÕ
tr-êng ®¹i häc y hµ néi
-----------------------------------------
ph¹m thÞ tuyÕt nga
ĐÁNH GIÁ SỨC CẢN ĐỘNG MẠCH PHỔI
BẰNG PHƢƠNG PHÁP SIÊU ÂM - DOPPLER TIM
Ở BỆNH NHÂN HẸP HAI LÁ KHÍT
TRƢỚC VÀ SAU NONG VAN BẰNG BÓNG
luËn ¸n tiÕn sÜ y häc
hµ néi - 2013
2
bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé y tÕ
tr-êng ®¹i häc y hµ néi
-----------------------------------------
ph¹m thÞ tuyÕt nga
ĐÁNH GIÁ SỨC CẢN ĐỘNG MẠCH PHỔI
BẰNG PHƢƠNG PHÁP SIÊU ÂM - DOPPLER TIM
Ở BỆNH NHÂN HẸP HAI LÁ KHÍT
TRƢỚC VÀ SAU NONG VAN BẰNG BÓNG
CHUYÊN NGÀNH : NỘI TIM MẠCH
MÃ SỐ : 62.72.01.41
luËn ¸n tiÕn sÜ y häc
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
GS.TS. NGUYỄN LÂN VIỆT
hµ néi - 2013
3
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh hẹp van hai lá (HHL) là tình trạng bệnh lý xảy ra khi các mép van
hai lá bị dính lại làm cho diện tích lỗ van hai lá bị giảm đi trong thời kỳ tâm
trương. Đây là một bệnh van tim mà nguyên nhân chủ yếu do thấp tim - một
bệnh lý còn khá phổ biến ở Việt Nam. Những điều tra gần đây ở một số địa
phương thuộc ngoại thành Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ
mắc thấp tim ở trẻ em còn đáng lo ngại [4],[9]. Trong số các bệnh van tim do
thấp, HHL là bệnh thường gặp nhất. Theo tổng kết tại Viện Tim mạch những
năm gần đây, trong số các bệnh nhân nội trú tại bệnh viện, tỷ lệ bệnh nhân có
HHL (đơn thuần hay phối hợp) chiếm gần 40% số bệnh nhân nằm viện [3].
HHL ở mức độ nhẹ và vừa ít có ảnh hưởng đến huyết động, bệnh nhân
vẫn có thể sinh hoạt được bình thường, nhưng khi HHL khít sẽ có ảnh hưởng
nghiêm trọng đến huyết động. Lỗ van hai lá bị hẹp khít làm cản trở dòng máu
từ nhĩ trái xuống thất trái gây ứ trệ máu trong nhĩ trái dẫn đến tăng áp lực
trong nhĩ trái, lâu ngày dẫn đến tăng áp trong mao mạch phổi do ứ máu tĩnh
mạch phổi, làm tăng áp lực động mạch phổi (ĐMP), tăng sức cản động mạch
phổi (PVR- Pulmonary Vascular Resistance), tăng gánh thất phải và cuối
cùng là suy tim phải.
Trước thập niên 1980, để mở rộng diện tích lỗ van hai lá người ta
thường sử dụng phương pháp mổ tách van tim kín hoặc tim hở. Năm 1984,
phương pháp nong van hai lá (NVHL) bằng bóng qua da của Inoue ra đời.
Phương pháp này đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi tại nhiều nơi trên
thế giới do tính hữu hiệu, đơn giản, an toàn và đặc biệt bệnh nhân không phải
chịu đựng một cuộc phẫu thuật lớn. Ở Việt Nam, phương pháp NVHL bằng
bóng qua da đã được ứng dụng tại Viện Tim Mạch- Bệnh viện Bạch Mai lần
đầu tiên năm 1997 và từ đó đến nay mỗi năm đã có khoảng 300-400 bệnh
nhân được điều trị theo phương pháp này.
4
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy rằng PVR có một vai trò quan
trọng trong sinh lý bệnh của HHL, nó góp phần vào việc đánh giá, theo dõi
quá trình điều trị cũng như tiên lượng bệnh nhân HHL [37],[143], và là một
chỉ số nhậy nhất trong đánh giá bệnh lý mạch máu phổi [88]. Một số nghiên
cứu thấy rằng: mặc dù tăng PVR thường có thể hồi phục (reversible) nhưng
nó có thể cố định ở một số bệnh nhân mặc dù đã được mở rộng lỗ van bằng
phẫu thuật hoặc NVHL bằng bóng [43],[88] và những bệnh nhân này thường
có tiên lượng xấu hơn những bệnh nhân có PVR trở về bình thường. Tuy
nhiên có nhiều nghiên cứu cho thấy có sự cải thiện đáng kể áp lực ĐMP cũng
như PVR ở những bệnh nhân HHL khít được mở rộng lỗ van hai lá bằng phẫu
thuật hoặc bằng phương pháp NVHL qua da [24],[35],[38],[53],[88],[113].
Trước đây để đánh giá PVR người ta phải thông tim nhưng đây là một thăm
dò gây chảy máu mà không phải cơ sở y tế nào cũng làm được và cũng không
dễ dàng thực hiện nhiều lần trên cùng một bệnh nhân. Vì vậy, để cố gắng
khắc phục những nhược điểm trên, từ năm 1980 trở lại đây, đã có một số
nghiên cứu cố gắng tìm cách định lượng PVR bằng siêu âm- Doppler tim [17]
[111],[112],[123], [129]. Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có một nghiên cứu
nào về việc đánh giá sức cản động mạch phổi ở bệnh nhân HHL khít bằng
siêu âm- Doppler tim cũng như theo dõi sự biến đổi của nó sau nong van.
Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá sức cản động mạch phổi
bằng phương pháp siêu âm - Doppler tim ở bệnh nhân hẹp hai lá khít trước
và sau nong van bằng bóng” với 2 mục tiêu sau:
1. Nghiên cứu sức cản ĐMP ở bệnh nhân HHL khít bằng phương pháp
siêu âm- Doppler tim (có đối chứng với sức cản ĐMP đo trên thông
tim) và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sức cản ĐMP.
2. Nghiên cứu sự thay đổi sức cản ĐMP sau nong van hai lá bằng bóng và
tìm hiểu ảnh hưởng của một số yếu tố đến sự thay đổi này.
5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Tình hình bệnh hẹp van hai lá trên thế giới và ở Việt Nam.
1.1.1. Tình hình bệnh thấp tim và hẹp hai lá trên thế giới.
Bệnh hẹp van hai lá (HHL) là một bệnh được phát hiện từ đầu thế kỷ
17. Năm 1609 John Mayow đã đề cập đến khái niệm hẹp lỗ van hai lá nhưng
mãi đến những năm cuối thế kỷ 17 Vieussens mô tả kỹ hơn và Morgagni lần
đầu tiên trình bày một trường hợp lâm sàng HHL vào năm 1769 [36],[120].
Vào thế kỷ 19 và những năm đầu thế kỷ 20, bệnh HHL vẫn khá phổ biến ở
các nước phát triển, sau đó bệnh giảm dần và tương đối ít gặp do người ta đã
hiểu rõ cơ chế gây bệnh để có cách phòng ngừa cũng như do điều kiện kinh tế
xã hội và vệ sinh phát triển tốt.
Nguyên nhân của HHL chủ yếu do thấp tim, một bệnh xảy ra do nhiễm
liên cầu tan huyết beta nhóm A [118],[146]. Theo một báo cáo của Tổ chức Y
tế Thế giới năm 1994, tần suất mắc thấp tim không phụ thuộc vào giới tính,
chủng tộc và địa dư, nhưng phụ thuộc rất nhiều vào lứa tuổi, mùa, điều kiện
môi trường sống, mức sống, trình độ văn hoá xã hội. Bệnh vẫn còn tồn tại khá
phổ biến ở các nước đang phát triển, nơi có điều kiện sống còn chưa tốt.
Thống kê năm 1971 cho thấy tỷ lệ mắc thấp tim ở các nước phát triển chưa
đầy 0,1 % thì tỷ lệ này ở Algerie lên tới gần 15% trong số trẻ em lứa tuổi học
đường [145]. Một báo cáo thống kê năm 2000 về tỷ lệ mắc thấp tim của trẻ
em lứa tuổi học đường ở các nước trên thế giới cho thấy: tỷ lệ này là
1/100.000 dân ở các nước phát triển, còn ở các nước đang phát triển tỷ lệ đó
lên tới gần 100/100.000 dân (ở Sudan), 150/100.000 dân (ở Trung Quốc). Ước
tính số lượng bệnh nhân chết do bệnh van tim do thấp năm 2000 là 332.000
người trên toàn thế giới, có sự khác nhau giữa các vùng châu lục [146].
6
1.1.2. Tình hình bệnh thấp tim và hẹp hai lá ở Việt Nam
HHL có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng hầu hết là do di chứng của
thấp tim. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển với điều kiện
kinh tế và mức sống còn khá lạc hậu, nên thấp tim cũng vẫn tồn tại một cách
đáng chú ý. Theo những nghiên cứu ban đầu tại một số vùng ở Việt Nam cho
thấy tỷ lệ mắc thấp tim trong lứa tuổi học đường vẫn còn khá cao. Một nghiên
cứu tại một xã ngoại thành Hà nội cho thấy tỷ lệ thấp tim ở lứa tuổi học trò là
3,94% và tỷ lệ phết họng có bằng chứng của liên cầu khuẩn là 16% [9]. Tại
khu vực phía nam, Hoàng Trọng Kim và cs [4] đã khảo sát trên 5324 học sinh
từ 6 tuổi đến 12 tuổi cho thấy tỷ lệ mắc thấp tim và/ hoặc có di chứng bệnh
van tim do thấp là 2,23%. Riêng bệnh HHL vẫn được chú ý nhiều bởi sự
thường gặp của nó trong các bệnh van tim do thấp nói chung. Theo tổng kết
gần đây nhất của Phạm Gia Khải và cs thì có tới 56,6% trong tổng số bệnh
nhân năm viện là do bệnh van tim do thấp [3].
Một điều đáng chú ý là các bệnh van tim do thấp thường xảy ra lứa tuổi
trẻ đã ảnh hưởng khá lớn đến nguồn lực lao động xã hội và cuộc sống của bản
thân bệnh nhân khi mà họ đang ở lứa tuổi sung sức nhất và còn cả một tương
lai ở phía trước. Chính vì vậy bên cạnh việc phòng ngừa tốt bệnh thấp tim,
việc phát hiện sớm và có những biện pháp điều trị hiệu quả sẽ có thể đưa
bệnh nhân trở lại cuộc sống gần như bình thường. Đặc biệt đối với bệnh
HHL, vấn đề này càng có ý nghĩa hơn vì đã có nhiều biện pháp khá hữu
hiệu để điều trị bệnh.
1.2. Giải phẫu bệnh và nguyên nhân của bệnh hẹp hai lá
1.2.1. Giải phẫu bệnh hẹp van hai lá
Trong hẹp hai lá do thấp, các tổn thương chính ở van hai lá là: dầy các
bờ van, dính các mép van, co rút và dính các dây chằng, lâu ngày dẫn tới xơ
7
hóa và vôi hóa bộ máy van hai lá, từ bờ van, lá van, vòng van, dây chằng làm
hạn chế hoạt động của van hai lá (Hình 1.1).
Hình 1.1. Hình ảnh hẹp lỗ van hai lá, dính các mép van
[Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Mitral_stenosis]
Phân độ hẹp hai lá :
Bình thường diện tích lỗ van hai lá từ 4- 6 cm
2
trong thời kỳ tâm trương.
Có thể phân mức độ HHL theo diện tích lỗ van (MVA) như sau [13]:
- HHL rất khít khi MVA < 1,0 cm
2
.
- HHL khít khi MVA từ 1 đến < 1,5 cm
2
.
- HHL vừa khi MVA từ 1,5- 2,0 cm
2
.
1.2.2. Nguyên nhân gây hẹp hai lá
1.2.2.1. Thấp tim: Là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp HHL [93],
[117],[142], tuy nhiên có tới 50- 60% số bệnh nhân HHL không được biết có
tiền sử thấp tim [60].
1.2.2.2. Một số nguyên nhân hiếm gặp khác: Bệnh tim bẩm sinh: (van hai lá
hình dù bẩm sinh, có vòng thắt trên van), vôi hóa nặng vòng van hai lá hoặc lá
8
van ở người lớn tuổi, bệnh hệ thống: u carcinoid, lupus ban đỏ hệ thống, viêm
đa khớp, mucopolysaccharidosis... [16],[19],[60].
1.3. Sinh lý bệnh hẹp van hai lá
Diện tích lỗ van hai lá ở người lớn bình thường từ 4 đến 6 cm2
và VHL
không gây cản trở dòng máu từ nhĩ trái xuống thất trái trong thì tâm trương.
Các thay đổi về áp lực và lưu lượng tim sẽ xuất hiện khi diện tích VHL giảm
xuống dưới 2 cm
2
. Sự thay đổi này càng rõ rệt khi hẹp van hai lá khít (diện
tích van < 1,5 cm2 hoặc 1 cm2
/m2
) [19].
Khi có HHL: van không mở ra được hết cỡ trong thời kỳ tâm trương sẽ
cản trở dòng máu xuống thất trái và tùy mức độ hẹp sẽ ảnh hưởng đến hoạt
động của hệ tuần hoàn gây ra những hậu quả sau:
1.3.1. Tăng chênh áp (gradient) qua lỗ van hai lá
Khi có HHL, do sự cản trở dòng máu từ nhĩ trái xuống thất trái làm cho
máu ứ lại một phần ở nhĩ trái làm cho áp lực nhĩ trái luôn ở mức cao hơn áp
lực thất trái trong suốt thời kỳ tâm trương (áp lực thất trái tâm trương vẫn duy
trì ở mức bình thường khoảng dưới 5 mmHg còn áp lực nhĩ trái tăng dần và
có thể tới khoảng 25 mmHg khi diện tích lỗ van hẹp đến 1 cm2
). Do vậy nó sẽ
gây ra sự chênh lệch áp lực qua van hai lá một cách đáng kể tùy thuộc mức độ
hẹp van hai lá. Nhiều nghiên cứu cho thấy mức độ chênh áp này phản ánh khá
trung thành mức độ hẹp van về mặt huyết động học [18],[42].
Ngoài kích thước lỗ van khi mở, một số yếu tố khác có thể làm tăng
chênh áp qua van hai lá như : khi bệnh nhân có kèm theo sốt, thiếu máu, hở
van hai lá, gắng sức...Đôi khi chênh áp qua van có thể thấp mặc dù van hai lá
khá hẹp do dòng chảy qua van thấp như khi có huyết áp thấp, có kèm suy
tim...
9
1.3.2. Giảm dòng máu chảy qua lỗ van hai lá do bị hẹp và làm giảm cung
lượng tim
Cung lượng tim trong HHL thường chỉ giảm khi mức độ HHL nhiều và
chủ yếu là do cản trở cơ học tại chỗ hẹp gây ra chứ ít khi do suy thất trái gây
nên; hơn nữa, sự giảm này không trầm trọng và ít ảnh hưởng đến cấp máu cho
cơ thể như trong các trường hợp suy tim trái khác.
1.3.3. Tăng sức cản ĐMP và áp lực ĐMP
Khi van hai lá hẹp nhẹ hoặc vừa, áp lực nhĩ trái thường chưa tăng
nhiều. Áp lực trung bình nhĩ trái ở bệnh nhân hẹp van hai lá thường >
10mmHg và có thể tới 15 - 20 mmHg khi van hẹp khít. Khi van hai lá hẹp
khít, áp lực trong NT tăng cao sẽ làm tăng áp lực trong tĩnh mạch phổi và mao
mạch phổi, do đó dẫn đến co các tiểu ĐMP để chống lại hiện tượng tăng áp
này. Sự co mạch này làm giảm rõ rệt đường kính của các mạch máu phổi, làm
tăng sức cản ĐMP, tăng áp lực ĐMP mà trên lâm sàng chúng ta có thể thấy
các biểu hiện của suy tim phải như: khó thở, phù, cổ chướng, gan to... Quá
trình co mạch kéo dài sẽ gây tổn thương các tiểu ĐMP và tiểu động mạch phế
nang, lâu dần dẫn đến quá trình tái cấu trúc và xơ hóa thành các tiểu động
mạch này gây tổn thương mạch phổi không hồi phục (irreversible). Như vậy,
ngoài sự cản trở dòng máu đi qua van hai lá bị hẹp, có thêm một cản trở thứ
hai ở các tiểu ĐMP, còn gọi là “hàng rào thứ hai” hay “chỗ hẹp thứ hai” (the
“second stenosis”) [27]. Trước đây người ta cho rằng khi đã có hàng rào thứ
hai thì việc phẫu thuật hoặc NVHL không có nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên trên
thực tế lâm sàng và một số nghiên cứu cho thấy tình trạng này vẫn được cải
thiện theo thời gian sau phẫu thuật hoặc NVHL [38],[53],[91].
10
1.3.4. Thay đổi về gắng sức
Kết quả của các nghiên cứu cho thấy mức độ thay đổi của chênh áp qua
van hai lá và áp lực động mạch phổi khi gắng sức không giống nhau. Nếu van
hẹp nhẹ hoặc vừa thì gắng sức không làm thay đổi nhiều nhưng nếu van
hẹp nặng thì sự biến đổi sẽ rất rõ rệt khi gắng sức. Điều này giải thích cho
sự xuất hiện triệu chứng khó thở khi gắng sức thường gặp đầu tiên ở bệnh
nhân HHL.
1.3.5. Thay đổi ở tâm nhĩ trái
Sự tăng áp lực nhĩ trái kéo dài sẽ dẫn đến giãn tâm nhĩ trái. Trong một
chừng mực nào đó có thể nói là sự giãn của nhĩ trái phản ánh mức độ hẹp và
thời gian bị HHL. Tuy nhiên nhiều bệnh nhân có mức HHL rất khít mà nhĩ
trái chưa giãn nhiều và ngược lại. Trên lâm sàng, có thể gặp bệnh nhân bị
HHL lâu ngày làm nhĩ trái to quá đè vào thực quản gây khó nuốt hoặc ĐMP
giãn ra và đè vào dây thần kinh quặt ngược gây khàn tiếng.
Tăng áp lực nhĩ trái kéo dài ngoài việc làm giãn nhĩ trái còn làm biến
đổi cấu trúc tế bào ở vách nhĩ trái: làm tăng sinh tổ chức xơ, có hiện tượng teo
và phì đại các tế bào xen kẽ, từ đó làm thay đổi điện sinh lý học và tính dẫn
truyền của các tế bào cơ tim dễ dẫn đến hình thành rung nhĩ [66],[124],
[131],[138],[144]. Khi bệnh nhân HHL bị rung nhĩ, nhĩ trái không co bóp nữa
làm cho dòng chảy trong nhĩ trái và tiểu nhĩ trái càng chậm lại, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc hình thành cục máu đông, gây tắc mạch hệ thống.
1.3.6. Thay đổi ở thất phải
Khi tăng áp lực và sức cản của mao mạch phổi, thất phải sẽ phải tăng
co bóp để duy trì một cung lượng máu cần thiết cho cơ thể dẫn đến phì đại
thất phải. Việc tăng sức cản ĐMP tuy làm cho thất phải tăng gánh nhưng nó
11
có tác dụng bảo vệ cho các mao mạch phổi khỏi bị các đợt cao áp nguy hiểm
do tăng đột ngột cung lượng thất phải, đặc biệt khi gắng sức. Cuối cùng, tăng
gánh thất phải do tăng áp lực và sức cản của mao mạch phổi sẽ dẫn tới giãn
thất phải, giãn vòng van ba lá gây hở van ba lá (HoBL). Bản thân HoBL lại
làm giãn và rối loạn chức năng thất phải và làm HoBL nặng thêm nữa. Thất
phải giãn và suy làm tăng áp lực tâm trương thất phải, đẩy vách liên thất về
phía thất trái trong thì tâm trương, và do vậy lại càng gây hạn chế đổ đầy thất
trái, làm giảm cung lượng tim [19],[47],[130].
1.3.7. Thay đổi ở thất trái
Thất trái vẫn bình thường hoặc đôi khi nhỏ hơn bình thường và áp lực
cuối tâm trương thất trái thường thấp [28],[30]. Sức co bóp của thất trái trong
đa số trường hợp là không bị ảnh hưởng, tuy nhiên cung lượng thất trái có thể
bị giảm do dòng máu qua van ít đi. Thông thường, chức năng thất trái không
bị ảnh hưởng trong HHL, nhưng có khoảng 25-30% số bệnh nhân có giảm
nhẹ chức năng thất trái do hậu quả của việc giảm lâu ngày dòng máu xuống
thất trái. Trong một số trường hợp HHL nặng có thể có hiện tượng giảm cung
lượng tim nặng, lâu dần dẫn đến phản ứng tăng sức cản đại tuần hoàn và tăng
hậu gánh, cuối cùng dẫn đến suy giảm chức năng thất trái.
1.3.8. Thay đổi ở phổi
Phổi bị ứ máu và xung huyết lâu ngày nên có màu xám nhạt, rắn chắc
và kém đàn hồi. Trong nhu mô phổi có những vùng chảy máu do vỡ những
mạch máu nhỏ, hình thành những tổn thương nhiễm Hemosiderin lan tràn
hoặc khu trú. Các sắc tố này còn được gọi là tế bào tim sinh ra từ biểu mô phế
nang và những tổ chức thuộc hệ thống lưới nội mô và chúng có thể được phát
hiện thấy trong lòng phế nang. Tuần hoàn phế quản rất phát triển và hệ bạch
mạch trong phổi bị ứ đọng.
12
1.3.9. Thay đổi ở gan
Gan to và xung huyết mạnh, các tĩnh mạch trung tâm tiểu thùy bị giãn
rộng và ứ máu, khoảng cửa bị phù nề. Trong quá trình điều trị và theo dõi lâm
sàng, có thể thấy thể tích gan tăng lên hoặc giảm đi theo tình trạng suy tim, do
vậy còn gọi là gan kiểu đàn phong cầm (Accordeon).
1.4. Sự thay đổi sức cản ĐMP trong HHL
1.4.1. Thay đổi do co thắt mạch
Khi van hai lá hẹp khít (diện tích < 1,5 cm2
) thì dòng chảy qua van sẽ
giảm đi, máu bị ứ lại ở nhĩ trái làm tăng áp lực nhĩ trái. Khi áp lực nhĩ trái
tăng thì áp lực tĩnh mạch phổi, áp lực mao mạch phổi cũng tăng theo một cách
tương ứng. Để bảo vệ cho phổi, để ngăn cản các mao mạch phổi khỏi bị tràn
ngập bởi sự dâng lên đột ngột của lưu lượng thất phải, để đỡ gánh nặng cho
nhĩ phải đã quá tăng gánh về lưu lượng, các tiểu ĐMP dần dần có xu hướng
co lại để hạn chế bớt lượng máu đi qua. Sự co mạch này làm giảm rõ rệt
đường kính của các mạch máu phổi, làm tăng sức cản ĐMP, tăng áp lực
ĐMP. Áp lực trong lòng mạch tăng cao, theo thời gian sẽ là một tác nhân gây
tổn thương các tế bào nội mô thành mạch phổi, từ đó khởi phát cơ chế tự điều
hòa trương lực thành mạch của mô mạch phổi bằng cách làm co các tiểu ĐMP
Sự co các tiểu động mạch phổi được cho là phản ứng xuất hiện trước tiên
trong chuỗi TAĐMP, tăng PVR. Quá trình co mạch phổi này kéo dài sẽ gây
nên rối loạn chức năng nội mạc: gây tăng tiết endothelin (ET)-1, đồng thời
giảm tiết nitric oxid (NO) và prostacyclin (hình 1.2).
13
Hình 1.2. Sơ đồ mô tả hậu quả rối loạn chức năng nội mạc mạch phổi [71]
(Rối loạn chức năng nội mạc gây giảm tổng hợp prostacyclin và nitric
oxid, đồng thời làm tăng tổng hợp endothelin-1 thúc đẩy quá trình co mạch và
tăng sinh tế bào cơ trơn mạch phổi. cAMP=cyclic adenosine monphosphat;
cGMP=cyclic guanosine monphosphate; ET=endothelin; ETA= endothelin
receptor A; ETB= endothelin receptor B; PDE5=phosphodiesterase type 5).
ET-1 được coi là yếu tố trực tiếp gây co mạch và tăng sinh các tế bào cơ
trơn mạnh nhất, hoạt hóa các nguyên bào sợi và các lưới ngoại bào.
Prostacyclin có vai trò ức chế quá trình tăng sinh của tế bào cơ trơn
thành mạch và giảm ngưng kết tiểu cầu.
Nitric oxide (NO) là một hợp chất khí được tổng hợp từ hệ Nitric oxide
synthase trong các tế bào nội mô mạch máu, có vai trò gây giãn mạch
(endothelial- dependent vasodilation), chống chết tế bào. Các tế bào nội mô
mạch máu tổng hợp ra NO khi ETB được kích hoạt, làm hoạt hóa kênh K+
, g
giãn mạch giúp cho hệ mạch mao mạch phổi thích ứng tạm thời với tình trạng
tăng áp lực lúc đầu. Tuy nhiên, phản ứng này nhanh chóng được thay thế
bằng tình trạng co mạch do ET-1 bị kích hoạt nhằm ngăn không cho dòng
14
chảy tăng lên một cách qua mức [71],[77]. Tuy nhiên, nếu phản ứng này kéo
dài liên tục sẽ gây ra tình trạng thiếu oxy các tế bào nội mô thành mạch, do đó
càng làm tổn thương nặng hơn các tế bào nội mô vốn đã bị tổn thương từ
trước do tăng áp lực máu trong thành mạch và càng kích thích hoạt hóa hệ
thống ET-1 gây co mạch và tạo nên một vòng xoắn bệnh lý.
1.4.2. Thay đổi do tái cấu trúc mạch các tiểu động mạch phổi và tiểu ĐM
phế nang
Chúng ta biết rằng: mỗi loại tế bào cấu trúc nên thành tiểu ĐMP (tế bào
nội mô, tế bào cơ trơn và nguyên bào sợi) cũng như các tế bào tham gia quá
trình viêm và các tiểu cầu đều đóng một vai trò quan trọng trong quá trình
viêm cũng như quá trình tái cấu trúc lại thành các tiểu ĐMP, tiểu động mạch
phế nang, từ đó gây tăng PVR, TAĐMP và ngược lại [71],[77].
Đóng vai trò quyết định trong cơ chế bệnh sinh dẫn đến sự tăng tiến triển
PVR bao gồm: phản ứng co các mao mạch phổi và tổn thương các tế bào nội
mô thành mạch dẫn đến mất cân bằng giữa quá trình tăng sinh tế bào và chết
tế bào, thúc đẩy quá trình tái cấu trúc lại thành mạch các ĐMP và tiểu động
mạch phế nang, gây hẹp lòng mạch, tắc nghẽn mạch làm tăng PVR, TAĐMP
[71],[77]. Nhiều nghiên cứu cho thấy: mặc dù đã có tăng sức cản ĐMP nhưng
nếu chúng ta nong van hoặc mổ tách van hai lá thì vẫn có thể cải thiện được
tình trạng này [133].
Song song với phản ứng co mạch, khi hệ thống ET-1 được kích hoạt sẽ
làm các tế bào cơ trơn thành mạch cũng được kích thích tăng sinh phát triển
lan rộng theo chiều ly tâm, xâm lấn tới tận các tiểu động mạch phế nang (là
những động mạch đi giữa các vách phế nang, bình thường không có lớp tế
bào cơ trơn gây „„cơ hóa‟‟, giảm tính đàn hồi của những tiểu động mạch phế
nang góp phần dẫn đến phì đại lớp trung mạc. Bên cạnh kích thích sự tăng
sinh các tế bào cơ trơn thành mạch, hệ thống ET-1 còn có tác dụng hoạt hóa