Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đánh Giá Ô Nhiễm Môi Trường Và Đề Xuất Giải Pháp Nhằm Khắc Phục Tại Một Số Cơ Sở Sản Xuất Mây Tre Đan Tại Khu Vực Chương Mỹ Hà Nội
PREMIUM
Số trang
62
Kích thước
1.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1197

Đánh Giá Ô Nhiễm Môi Trường Và Đề Xuất Giải Pháp Nhằm Khắc Phục Tại Một Số Cơ Sở Sản Xuất Mây Tre Đan Tại Khu Vực Chương Mỹ Hà Nội

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng 1450 làng nghề với 108 ngành nghề, giải

quyết việc làm cho hơn 10 triệu lao động nông thôn, các sản phẩm của làng

nghề không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho người dân trong nước

mà còn là những mặt hàng xuất khẩu quan trọng ra thị trường thế giới đem lại

nhiều giá trị to lớn về mặt kinh tế cũng như đưa những tinh hoa nhất của Việt

Nam ra để giới thiệu với bạn bè thế giới về những nghề truyền thống của Việt

Nam

Tuy nhiên, sự phát triển của các làng nghề còn diễn ra một cách tự phát,

thiếu quy hoạch, thiết bị sản xuất thô sơ, lạc hậu, tâm lý, thói quen sản xuất

quy mô nhỏ, khép kín. Việc đầu tư trang thiết bị và đổi mới công nghệ hạn

chế dẫn đến hiệu quả sản xuất không cao, tiêu hao nhiên liệu nhiều hơn, bên

cạnh đó việc sản xuất đó thải ra môi trường một lượng lớn chất thải. Nhiều

nghề đan xen, phân bố dải rác trên khắp địa bàn làng, xã, việc xả thải phân

tán, khó thu gom, nên lượng chất thải này hầu như không được xử lý sơ bộ

ảnh hưởng xấu đến môi trường làng nghề, sức khoẻ người dân và các vùng

lân cận. Tuy nhiên, tại khu vực khác nhau, ngành nghề khác nhau thì sự biểu

hiện tác hại cũng như mức độ tác động đến môi trường cũng khác nhau. Làng

nghề sản xuất mây tre đan Phú Nghĩa – Chương Mỹ - Hà Nội cũng là một

trong số những làng nghề như vậy. Ở đây, có nghề làm mây, tre đan từ lâu

đời. Người dân trong làng sản xuất các mặt hàng như rổ, túi xách, làn, đĩa,

khay, lọ hoa, bàn ghế, giường, tủ, khung tranh…xuất khẩu trong và ngoài

nước, xuất sang nước ngoài chủ yếu là Nhật, Mỹ, Nga, Trung Quốc với 80%

tổng sản phẩm, 20 % tiêu dùng nội địa. Sự phát triển này tạo ra cho nhân dân

trong xã một khối lượng công việc đáng kể, góp phần nâng cao thu nhập trong

toàn xã. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng kéo theo nhiều bất cập, môi trường

đất, nước, không khí trong làng trở nên ô nhiễm bởi bụi bẩn, nước thải từ các

thùng ngâm mây, song, tre xả thải bừa bãi, sức khoẻ người dân cũng bị ảnh

hưởng. Đây là một vấn đề bức xúc cần sớm được giải quyết. Được sự đồng ý

2

của khoa Chế biến Lâm Sản, thầy Nguyễn Phan Thiết. Tôi xin được xây dựng

đề tài “ Đánh giá ô nhiễm môi trường và đề xuất giải pháp nhằm khắc phục

tại một số cơ sở sản xuất mây tre đan tại khu vực Chương Mỹ - Hà Nội ”

3

CHƢƠNG I

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1 Làng nghề Việt Nam, lịch sử hình thành và phát triển

Từ xa xưa, người dân Việt Nam đã biết sử dụng thời gian nông nhàn để

sản xuất những sản phẩm thủ công, phi nông nghiệp phục vụ cho nhu cầu đời

sống, các hoạt động này đã liên kết với nhau làm cho nông thôn Việt Nam có

thêm một số tổ chức theo nghề nghiệp. Các làng nghề được lan truyền và

nhiều hộ nông dân cùng sản xuất một loại sản phẩm. Bên cạnh những người

chuyên làm nghề, đa phần vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm thêm những

công việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng

hoá, các làng nghề mang tích chất chuyêu sâu hơn và thường được giới hạn

trong quy mô nhỏ dần dần tách khỏi nông nghiệp để chuyển hẳn sang nghề

thủ công. Như vậy, làng nghề hình thành từ đó.

Làng nghề được hiểu là làng nông thôn Việt Nam có ngành nghề tiểu thủ

công, phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số lao động và thu nhập so với nghề

nông.

Có nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau khi đề cập đến tiêu chí để được

coi là làng nghề. Nhìn chung các làng nghề đều phải có một số đặc điểm chủ

yếu sau

- Giá trị sản xuất và thu nhập từ nghề phi nông nghiệp ở làng nghề đạt trên

50 % so với tổng giá trị sản xuất, thu nhập chung của cả làng nghề trong năm

hoặc doanh thu hàng năm từ ngành nghề ít nhất đạt 300 triệu.

- Số hộ và số lao động tham gia nghề phi nông nghiệp ở làng ít nhất 30 %

so với tổng số hộ và lao động ở làng nghề hoặc có ít nhất 300 lao động.

- Sản xuất phi nông nghiệp do làng sản xuất mang tính đặc thù của làng và

do người làng tham gia.

Theo thời gian, các làng nghề dần dần phát triển, sự phân bố và phát triển

làng nghề giữa các vùng trong cả nước không đều nhau. Các làng nghề ở

miền Bắc phát triển mạnh hơn ở miền Trung và miền Nam. Trong đó, tập

4

trung nhiều nhất ở đồng bằng sông Hồng: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương,

Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam…Vì đây là nơi có nhiều thuận lợi và thế

mạnh để phát triển nghề truyền thống hơn so với các vùng khác trong cả

nước. Sự phân bố của các làng nghề trong các khu vực ở nước ta được thể

hiện ở biểu đồ sau:

Sự phát triển của làng nghề Việt Nam đã tạo ra một khối lượng hàng hoá

đáng kể, đáp ứng kịp thời nhu cầu đa dạng của đời sống nhân dân, góp phần

xây dựng vào việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương và tăng kim ngạch

xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu từ khu vực làng nghề năm 2008 đạt gần 900

triệu USD. Đồng thời làng nghề cũng tạo ra việc làm tại chỗ cho hàng vạn lao

động nông nhàn ở các vùng lân cận, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ở nông thôn và xoá đói, giảm nghèo. Đời sống nhân dân được cải

thiện rõ rệt, số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo chiếm tỷ lệ thấp và không còn hộ

đói. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng mang lại nhiều bất cập. Đặc biệt là vấn

đề ô nhiễm môi trường và xã hội.

1.2 Thực trạng ô nhiễm môi trƣờng tại các làng nghề Việt Nam

Sự phát triển của các làng nghề góp phần không nhỏ vào chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, vào tổng thu nhập quốc nội, với 90 % tổng giá trị sản phẩm được

tiêu thụ trong nước, còn lại là xuất khẩu 10 %. Song sự xuống cấp của môi

trường làng nghề đang là vấn đề đáng lo ngại.

5

Theo kết quả điều tra của hợp phần “ Kiểm soát ô nhiễm tại các khu vực

nông dân nghèo”, được bộ TN&MT công bố thì qua khảo sát 52 làng nghề

điển hình hiện nay trong cả nước có tới 46 % số làng nghề trong số này bị ô

nhiễm nặng, 27 % ô nhiễm vừa, 27 % ô nhiễm nhẹ. Đáng báo động là mức

độ ô nhiễm môi trường tại các làng nghề không những giảm mà còn có xu

hướng gia tăng theo thời gian.

Các dạng ô nhiễm phổ biến ở các làng nghề là khí thải, nước thải và chất

thải rắn. Đây là 3 dạng ô nhiễm phổ biến được sinh ra bởi hoạt động làng

nghề, do họ chỉ chú ý đến sản phẩm mà không có ý thức xử lý các chất thải

nguy hại, là nguyên nhân gây ra các bệnh và dịch bệnh cho bản thân và người

lao động ở chính làng nghề và ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư sống xung

quanh. Tình trạng này ngày càng gia tăng trong những năm gần đây.

Hiện cả nước có 6 loại hình làng nghề: Chế biến lương thực, thực phẩm,

dược liệu 197 làng chiếm 13,6 %, dệt vải, đồ da 173 làng chiếm gần 12 %, thủ

công mỹ nghệ, thêu ren 618 làng chiếm 42,6 %, sản xuất vật liệu xây dựng 31

làng chiếm 2,14 %, còn lại các làng nghề khác 341 làng. Hầu hết, các làng

nghề đều sử dụng than củi và than đá nên gây ra ô nhiễm không khí như bụi,

hơi nước, SO2, CO2, CO, NOx là hết sức phổ biến. Tại hầu hết các làng nghề,

chỉ tiêu BOD, COD, SS đều lớn hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn, các chất gây

ô nhiễm này không được xử lý sẽ phát sinh ra nhiều dạng khí gây ô nhiễm

môi trường như CH4, H2S, NH3….

Các chất thải rắn nguy hại không được các làng nghề xử lý đang là nguồn

gây ô nhiễm đất và nước. Hàng ngày, làng nghề tái chế giấy Dương Ô – Bắc

Ninh thải 4,5 - 5 tấn chất thải rắn như xỉ than, nilon, đinh. Làng nghề tái chế

nhựa Trung Văn – Hà Nội thải 3,5 tấn rác/ngày. Trong khi đó, các chất thải

rắn được thu gom rất thủ công và đem chôn lấp đơn giản ở các bãi chôn lấp

hở, thậm chí là bị thải bỏ và đốt bừa bãi ngay trên các con đê làng hoặc đổ

xuống các dòng sông.

6

Sự phát triển ồ ạt của các làng nghề cũng làm cho nguồn nước trở nên ô

nhiễm nghiêm trọng. Khảo sát gần đây cho thấy, chất lượng nước của các con

sông chảy qua Hà nội đều bị giảm sút do ô nhiễm bởi nguồn thải và các chất

thải ô nhiễm gây ra. Nếu như sông Nhuệ, sông Đáy bị ô nhiễm nặng. Nước

sinh hoạt bị nhiễm thach tín, amoni có ở các vùng trong toàn thành phố. Sự ô

nhiễm ở các làng nghề ảnh hưởng ngày càng lớn đến nguồn nước sản xuất và

sinh hoạt của cộng đồng dân cư. Theo kết quả khảo sát của viện Khoa học và

công nghệ môi trường cho thấy: 100 % mẫu nước thải ở các làng nghề có

thông số vượt quá tiêu chuẩn cho phép, nước mặt, nước ngầm có dấu hiệu ô

nhiễm nặng tại các làng nghề chế biến nông sản, thực phẩm, dệt nhuộm. Nước

thải có hàm lượng BOD5 rất cao, có nơi hàm lượng COD cao gấp nhiều lần so

với tiêu chuẩn cho phép

Như vậy, hầu hết các làng nghề đều gây ô nhiễm môi trường, tác động

mạnh tới môi trường đất, nước, không khí, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức

khoẻ người dân. Mức độ ô nhiễm môi trường tại các làng nghề khác nhau

cũng không giống nhau.

1.3 Ô nhiễm môi trƣờng tại các làng nghề sản xuất mây tre đan

a. Thực trạng chung

Trong nhiều năm qua, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, thị hiếu

của người tiêu dùng cũng tăng lên, những mặt hàng được làm bằng tay với

tinh xảo khéo léo ngày càng được ưa chuộng. Các mặt hàng làm từ mây tre,

song qua bàn tay của những nghệ nhân tại làng nghề, từ những mặt hàng đơn

giản, thông dụng như rổ, rá, túi xách, làn, đĩa, khay, lọ hoa, bàn ghế…cho đến

những mặt hàng được thêu khéo léo các hoa văn như khung ảnh, tranh đan

bằng mây…ngày càng được nhiều người ưa chuộng, không chỉ trong nước mà

còn xuất khẩu ra nước ngoài như làng nghề mây tre đan Phú Nghĩa – Chương

Mỹ - Hà Nội, làng nghề mây tre đan Phú Túc – Phú Xuyên – Hà Nội

…chuyên sản xuất mặt hàng mây tre đan phục vụ tiêu dùng trong nước và

xuất khẩu. Điều này làm cho kinh tế các vùng quê ngày càng khởi sắc.

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!