Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trong chương trình phát thanh (thông qua tư liệu tại đài tt – th huyện đại lộc)
PREMIUM
Số trang
268
Kích thước
19.8 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1616

Đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trong chương trình phát thanh (thông qua tư liệu tại đài tt – th huyện đại lộc)

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THỊ BÍCH LIỄU

ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG

CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH

(THÔNG QUA TƯ LIỆU TẠI ĐÀI TT-TH HUYỆN ĐẠI LỘC)

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 8229020

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Đà Nẵng - Năm 2019

Công trình được hoàn thành tại

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐHĐN

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. LÊ ĐỨC LUẬN

Phản biện 1: PGS.TS. Trương Thị Nhàn

Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chinh

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận

văn tốt nghiệp thạc sĩ ngôn ngữ họp tại Đại học Sư phạm vào

ngày 18 tháng 10 năm 2019.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Thư viện trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN

- Khoa ngôn ngữ – Giáo Dục, Trường Đại học Sư Phạm￾ĐHĐN

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Báo chí là công cụ, kênh thông tin quan trọng của Đảng, Nhà

nước, nhằm phổ biến chủ trương, chính sách, pháp luật, cổ vũ cá tập

thể, cá nhân vươn lên phát triển kinh tế, định hướng dư luận, cũng

như phê phán, lên án, đả kích các luận điệu chống phá Nhà nước của

các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Báo chí có

nhiều thể loại như phỏng vấn, ghi chép, phóng sự, ký sự, điều tra,

tin…Mỗi thể loại có một đặc điểm, phong cách sử dụng từ ngữ riêng

để mang lại sức mạnh, hiệu quả tuyên truyền nhất định, qua đó, định

hướng dư luận xã hội.

Cùng với các loại báo khác, Phát thanh là một loại hình báo

chí dùng phương tiện âm thanh tổng hợp tác động đến thính giác của

người nghe thông qua lời nói - tiếng động và âm nhạc. Ngoài ra, do

truyền tải thông điệp bằng sóng điện từ nên báo phát thanh có tính

tức thì và toả khắp mọi nơi mọi lúc, tiện lợi cho người nghe.

Đài TT – TH huyện Đại Lộc có trên 30 năm hoạt động trên

lĩnh vực truyền thanh, song chưa có một công trình nào nghiên cứu

một cách căn bản về đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trong chương trình

phát thanh hằng ngày của Đài, đặc biệt là chương trình thời sự, một

chương trình được nhiều khán giả nghe Đài quan tâm. Chính vì thế,

trong nhiều năm qua, việc đánh giá những ưu điểm để phát huy và

hạn chế để khắc phục, hoặc từ đó lựa chọn phương án sử dụng ngôn

ngữ một cách hiệu quả trong các chương trình thời sự của Đài dường

như bỏ ngõ. Vậy nên, có thể xem việc tìm hiểu đặc điểm sử dụng

ngôn ngữ trong chương trình phát thanh của Đài nhằm hướng đến

chuẩn ngôn ngữ trong chương trình là rất cần thiết.

2. Lịch sử vấn đề

Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí

tại Việt Nam. Theo đó, các nghiên cứu ngôn ngữ báo chí đã đề cập

đến: từ, ngữ, cú, câu, văn bản (diễn ngôn). Cách trích dẫn, tít báo

(tiêu đề báo), sapo (lời dẫn), cách kết thúc, cấu trúc tin… Mỗi công

trình nghiên cứu dù lớn hay nhỏ về quy mô, góc độ nghiên cứu, vẫn

2

cho chúng ta thấy được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu

đối với thể loại báo chí trong đó có lĩnh vực phát thanh. Và mỗi công

trình nghiên cứu có một cách nhìn nhận, đánh giá, nhận xét riêng.

Trên cơ sở kế thừa lý thuyết và các kết quả nghiên cứu về ngôn ngữ

báo chí, tác giả luận văn sẽ khảo sát đặc điểm ngôn ngữ trong chương

trình phát thanh của Đài. Từ đó phân tích, làm rõ đặc điểm ngôn ngữ

và những giá trị biểu đạt của nó trong chương trình phát thanh hằng

ngày của Đài.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ hiệu quả sử

dụng ngôn ngữ trong chương trình phát thanh của Đài TT – TH

Huyện Đại Lộc. Cụ thể luận văn giải quyết vấn đề sau:

Thứ nhất : Những nhận biết chung về ngôn ngữ báo chí và

ngôn ngữ phát thanh của Đài TT – TH Huyện Đại Lộc.

Thứ hai: Hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ trong chương

trình phát thanh hằng ngày đối với công tác tuyên truyền nói chung

và việc góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Đồng thời, từ

đó phát hiện ra những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong việc sử dụng

ngôn ngữ phát thanh, tìm ra hướng giải quyết để cho ngôn ngữ phát

thanh đạt được hiệu quả giao tiếp cao nhất.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

a. Đối tượng:

- Ngôn ngữ trong chương trình phát thanh hằng ngày của Đài

TT – TH Huyện Đại Lộc và giá trị sử dụng của chúng.

- Thực trạng và giải pháp khắc phục lỗi viết tin bài của

phóng viên

b. Phạm vi nghiên cứu

Một số chương trình phát thanh trong năm 2018 và những

tháng đầu năm 2019.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Miêu tả các đặc điểm về từ vựng, ngữ âm và ngữ pháp. Các

lỗi trong việc viết tin, bài của phóng viên.

- Phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ cách sử dụng câu, từ ngữ,

ngữ điệu…

3

- Sử dụng thủ pháp thống kê số lần sử dụng các lớp từ vựng,

ngữ điệu, số lượng câu từ trong văn bản.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Đài TT – TH Huyện Đại Lộc đã có gần 30 năm hoạt động

trên lĩnh vực phát thanh, nhưng đến nay chưa hề có một công trình

nào nghiên cứu về Đặc điểm ngôn ngữ trong các chương trình phát

thanh của Đài. Vì vậy, nếu được thực hiện thành công, luận văn này

sẽ góp phần làm phong phú thêm những kiến thức về ngôn ngữ báo

chí nhất là ngôn ngữ trong lĩnh vực phát thanh. Đồng thời luận văn

hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo cho đội ngũ Phóng viên, Biên tập

viên, phát thanh viên của Đài TT – TH Huyện Đại Lộc, giúp họ sáng

tạo hơn trong cách sản xuất và thực hiện chương trình để chương

trình phát thanh của Đài huyện ngày một phong phú, sáng tạo và hấp

dẫn hơn.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục.

Tác giả chia bố cục luận văn như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài

Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ phát thanh của Đài TT – TH

Huyện Đại Lộc xét trên các phương diện từ vựng, ngữ âm và ngữ pháp

Chương 3: Thực trạng về lỗi viết tin, bài của phóng viên tại

Đài TT – TH Huyện Đại lộc và giải pháp khắc phục

4

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1 Báo chí và ngôn ngữ báo chí

1.1.1 Báo chí

Trong giai đoạn hiện nay, người ta thường dùng khái niệm

báo chí “truyền thông” để bao gồm cả báo viết, báo nói và báo hình.

Báo chí ra đời trước hết do nhu cầu thông tin, qua báo chí người ta có

thể nhanh chóng tiếp cận đượcc các vấn đề mà mình quan tâm.

1.1.1.1 Các thể loại báo chí

- Tin:

- Tường thuật

- Ghi nhanh

- Phóng sự

- Phỏng vấn

- Ký sự

1.1.1.2 Mô hình của tác phẩm báo chí

1.1.2 Ngôn ngữ báo chí

Ngôn ngữ báo chí là một lĩnh vực chuyên nghiệp của báo chí.

Và tác phẩm báo chí thể hiện thông qua ngôn ngữ cần có sự linh

động, phù hợp với từng ngữ cảnh nhất định trong tác phẩm.

1.2. Đặc điểm ngôn ngữ báo chí

1.2.1. Tính chính xác

Ngôn ngữ của bất kỳ phong cách nào cũng phải bảo đảm tính

chính xác. Nhưng với ngôn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng, vì báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội,

chỉ cần một sơ suất dù nhỏ nhất về ngôn từ cũng có thể làm cho độc

giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin, nghĩa là có thể gây ra những gây

hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được.

1.2.2. Tính thời sự

Thông tin phải truyền đạt kịp thời, nhanh chóng. Chỉ có

những thông tin mới mẻ, cần thiết mới hấp dẫn người đọc, người

nghe. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu trao đổi và tiếp nhận

thông tin của con người ngày càng lớn. Báo chí sẽ thoả mãn nhu cầu

5

thông tin đó của con người, nhưng đồng thời người ta đòi hỏi đấy

phải là những thông tin kịp thời, nóng hổi.

1.2.3. Tính đại chúng

Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người

trong xã hội, không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức,

địa vị xã hội, lứa tuổi, giới tính..., đều là đối tượng phục vụ của báo

chí. Chính vì thế, ngôn ngữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ dành cho tất

cả và của tất cả, tức là có tính phổ cập rộng rãi.

1.2.4. Tính chiến đấu

Báo chí là công cụ đấu tranh chính trị của một nhà nước, một

đảng phái, một tổ chức. Tất cả công việc thu thập và đưa tin đều phải

phục vụ cho nhiệm vụ chính trị đó. Tính chiến đấu là một yếu tố

không thể thiếu được trong quá trình tạo nên sự ổn định và phát triển

của xã hội trên mặt trận chính trị tư tưởng. Ðấy chính là các cuộc đấu

tranh giữa cái cũ và cái mới; giữa cái tiến bộ và lạc hậu; giữa tích cực

và tiêu cực...

1.2.5. Tính hấp dẫn, thuyết phục

Tin tức của Báo, Đài cần phải được trình bày và diễn đạt

hấp dẫn để khêu gợi hứng thú của người đọc, người nghe. Tính hấp

dẫn được coi như là một trong những yếu tố quyết định sự sinh tồn

của một tờ báo, tạp chí hay các đài phát thanh, truyền hình. Ðiều này

đòi hỏi ở hai mặt: nội dung và hình thức.

1.2.6. Tính ngắn gọn

Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dòng có thể

làm loãng thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người

đọc, người nghe.

1.2.7. Tính định lượng

Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngôn từ vì chúng

thường bị giới hạn trong một khoảng thời gian hay một diện tích nhất

định.

1.3. Chuẩn mực ngôn ngữ và chuẩn ngôn ngữ trong báo chí

1.3.1. Chuẩn mực ngôn ngữ

Ngôn ngữ chuẩn mực trước hết phải là những thói quen giao

tiếp ngôn ngữ được định hình về mặt xã hội và được chấp nhận trong

6

cảm thức ngôn ngữ của người ngôn ngữ. Nó là cơ sở cho người hay

người viết tạo lập lời nói hay văn bản đó. Chuẩn ngôn ngữ bao gồm:

Chuẩn từ vựng, chuẩn ngữ pháp, và chuẩn phong cách.

1.3.2. Chuẩn ngôn ngữ trong báo chí

Báo chí với vai trò là người đưa thông tin bằng ngôn từ thì

việc sử dụng cần phải cẩn trọng. Vì thế, báo chí cần đi đầu trong

chuẩn hóa ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, giữ gìn

bản sắc văn hóa dân tộc.

1.4. Chức năng của ngôn ngữ báo chí

Các chức năng của báo chí trong xã hội đã làm cho ngôn ngữ

trên báo chí mang những đặc điểm đặc thù, phân biệt với hàng loạt

phong cách chức năng khác xét từ phía ngôn nghĩa.

1.4.1 Chức năng thông báo

1.4.2 Chức năng định hướng dư luận.

1.4.3. Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng

1.5. Phát thanh và đặc điểm của ngôn ngữ phát thanh

1.5.1. Giới thiệu về phát thanh

Phát thanh là một loại hình truyền thông đại chúng chuyển

tải những thông tin bằng âm thanh về một sự kiện bằng sóng vô

tuyến điện. Phát thanh cũng như truyền trình xuất hiện vào đầu thế

kỷ thứ XX và phát triển với tốc độ nhanh chóng nhờ sự tiến bộ của

khoa học kĩ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh thông tin quan trọng

trong đời sống xã hội. Ngày nay, phát thanh là kênh thông tin quan

trọng của mỗi gia đình, mỗi quốc gia và dân tộc nhất là ưu thế nghe

bằng tai, phát thanh đã ăn sâu vào đời sống, tư tưởng, tình cảm của

người dân.

1.5.2. Quan niệm về lời nói trong phát thanh hiện nay

Ngôn ngữ báo phát thanh là sự kết hợp đặc biệt giữa một bên

là sản phẩm ngôn ngữ tự nhiên của con người (lời nói), với một bên

là phi ngôn ngữ (tiếng động, âm nhạc), tồn tại dưới dạng âm thanh,

dùng làm phương tiện giao tiếp, trao đổi thông tin báo chí giữa nhà

báo (đài phát thanh) và thính giả. Dưới góc độ báo chí học, các nhà

nghiên cứu phát thanh gọi ngôn ngữ báo phát thanh là ngôn ngữ âm

thanh tổng hợp, gồm lời nói, tiếng động, âm nhạc.

7

1.5.3. Mối quan hệ giữa lời nói - tiếng động- âm nhạc

trong ngôn ngữ phát thanh hiện nay

1.5.4. Đặc điểm của ngôn ngữ phát thanh

1.5.4.1 Ngôn ngữ phát thanh là ngôn ngữ nói

1.5.4.2. Ngôn ngữ phát thanh không được minh họa bằng

hình ảnh

1.5.4.3. Ngôn ngữ phát thanh có tính hình tuyến

1.5.4.4. Ngôn ngữ phát thanh nghiêng về hình thức độc thoại

1.5.4.5. Ngôn ngữ phát thanh mang tính phổ cập

1.6. Giới thiệu về Đài TT – TH Huyện Đại Lộc

Đảng ta nhận định: “ Đài phát thanh cơ sở là cánh tay nối

dài của Đảng” bởi thông qua hoạt động của hệ thống Đài phát thanh

từ huyện đến cơ sở, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,

nhà nước kịp thời đến tay người dân.

Đài Truyền thanh - Truyền hình huyện Đại Lộc nằm về phía

Tây Bắc của tỉnh Quảng Nam, bao gồm hệ thống đài truyền thanh

của 18 xã/thị trấn với 266 cụm loa truyền thanh thôn và công suất

máy tăng âm 36.350W phục vụ cho hơn 162.000 dân. Với hệ thống

loa phủ khắp trên địa bàn, từ lâu Đài phát thanh từ huyện đến cơ sở

đã trở thành kênh thông tin hữu ích cho người dân.

Đài TT – TH Huyện Đại Lộc thành lập hơn 30 năm. Đài hiện

nay có tổng cộng 11 người, Đài có 2 trạm phát sóng ( 1 trạm đặt tại

Núi Lỡ, và 1 trạm đặt tại Thị trấn Aí Nghĩa ). Chương trình của Đài

được phát sóng trên tần số 92,9MZ, phát lại trên trang Webside của

Đài (Dailocrt.vn) và Cổng thông tin điện tử của huyện Đại Lộc giúp

khán giả nghe lại các chương trình được lưu giữ tại đây. Thông

thường, Đài tiếp và phát sóng Đài trung ương, tỉnh như:

+ Tiếp phát sóng Đài tiếng nói Việt Nam

+ Tiếp phátsóng Đài Phát thanh -truyền hình QuảngNam ( QRT).

1.6.1. Mục tiêu hoạt động của Đài

Đài TT – TH Huyện Đại Lộc là cơ quan ngôn luận của Đảng, tiếng

nói của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Đại Lộc. Ngoài nhiệm vụ

tuyên truyền các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đến

người dân, Đài TT – TH Huyện Đại Lộc còn có nhiệm vụ đấu tranh, phê

8

bình, phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; cổ vũ cái

hay, cái đẹp, nhân tố điển hình trong cuộc sống; tiên phong đấu tranh, phê

phán các hành vi tiêu cực trong xã hội, định hướng dư luận xã hội.

1.6.2. Cơ cấu chương trình phát thanh của Đài TT – TH

Huyện Đại Lộc

Trong những năm qua, hàng ngày Đài Đại Lộc xây dựng 1

chương trình thời sự. Chương trình thời sự được phát vào lúc 5 giờ

sáng và 5 giờ 30 chiều.

+ Thời lượng: 25 phút/chương trình.

+ Cơ cấu tin/bài: từ 8 hoặc 9 tin và 1 hoặc 2 phóng sự.

+ Tin được sắp xếp thể loại theo thứ tự: Chính trị - Kinh tế -

Văn hóa - Xã hội; An ninh Quốc phòng, Gương NTVT…

1.6.3. Quy trình thực hiện chương trình phát thanh của Đài

1.7. Tiểu kết

Trong chương 1, Luận văn tập trung trình bày những vấn đề

lý luận liên quan đến đề tài, các khái niệm cơ bản để làm nền tảng

cho quá trình nghiên cứu. Cụ thể, tác giả nêu về khái niệm báo chí,

đặc điểm phong cách của ngôn ngữ báo chí, phát thanh, đặc điểm

của ngôn ngữ phát thanh. Đồng thời nêu ra được chuẩn mực ngôn

ngữ và chuẩn ngôn ngữ trong báo chí để làm tiền đề cho việc triển

khai luận văn.

Mặc khác, vì đề tài của luận văn là “ Đặc điểm ngôn ngữ

trong chương trình phát thanh tại Đài TT – TH Huyện Đại Lộc” nên

tác giả cũng giới thiệu khái quát về Đài TT – TH Huyện Đại Lộc,

Quảng Nam; chương trình phát thanh và cơ cấu chương trình phát

thanh hằng ngày của Đài. Cơ sở lý thuyết này là yếu tố quan trọng, là

kim chỉ nam định hướng cho việc triển khai các nội dung ở các

chương chính của luận văn

9

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ PHÁT THANH XÉT TRÊN CÁC

PHƯƠNG DIỆN TỪ VỰNG, NGỮ ÂM VÀ NGỮ PHÁP

2.1. Đặc điểm ngôn ngữ phát thanh xét trên phương diện từ vựng

2.1.1. Đặc điểm từ vựng xét theo cấu tạo

2.1.1.1. Khái quát về từ

Theo quan niệm của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới, từ là đơn

vị cơ bản của ngôn ngữ. Tất cả các đơn vị ngôn ngữ khác, chẳng hạn: hình

vị, thành ngữ, các cấu trúc cú pháp nào đó, bằng cách này hay cách khác

đều do sự tồn tại của các từ quy định. Từ không những là đơn vị cơ bản

của từ vựng mà còn là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ nói chung.

2.1.1.2. Cấu tạo từ

a. Từ đơn: Từ đơn là từ do một tiếng có nghĩa tạo thành.

Qua khảo sát 30 chương trình phát thanh trong tháng 7/2019, tác giả

nhận thấy, hầu hết từ đơn được sử dụng là từ thuần Việt, một âm tiết

(1 tiếng). Trong đó, chủ yếu các từ loại được sử dụng là danh từ,

động từ với số lượng 3.291 lượt từ đơn.

b.Từ phức: Là từ gồm hai hay nhiều tiếng tạo thành.

Khảo sát 30 bản tin chương trình phát thanh tháng 7/2019 ,

tác giả thống kê 3227 lượt từ phức

STT Số lượng Tỷ lệ

Từ ghép 2918 lượt từ 94 %

Từ láy 309 lượt từ 6 %

c. Từ ghép: Theo chức năng thì từ ghép có hai loại: từ ghép

đẳng lập và từ ghép chính phụ.

Trong tổng số 2918 lượt từ ghép được dùng trong chương

trình phát thanh hằng ngày, tác giả phân chia thành từ ghép chính phụ

và từ ghép đẳng lập và nhận thấy từ ghép chính phụ chiếm số lượng

khá nhiều.

Từ ghép Số lượng Tỷ lệ

Từ ghép chính phụ 2412 lượt từ 82%

Từ ghép đẳng lập 506 lượt từ 18 %

10

Các từ ghép chính phụ được phóng viên sử dụng khá đa dạng,

phong phú trong các tác phẩm báo chí.

d. Từ láy: Những từ được cấu tạo bởi hai tiếng trở lên, giữa

các tiếng có quan hệ với nhau về mặt âm.

2.1.2. Đặc điểm từ vựng xét theo nguồn gốc

2.1.2.1. Từ Hán Việt

Là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung

Quốc nhưng đọc theo âm Việt.

2.1.2.2. Từ Thuần Việt

Từ Thuần Việt là cốt lõi, cái gốc của từ vựng tiếng Việt.

2.1.2.3. Từ Ấn Âu

Nhìn chung, các từ ngữ gốc Ấn Âu (chủ yếu là gốc Pháp) đã

thâm nhập vào khá nhiều mặt của đời sống xã hội. Tiến hành thống

kê, chúng tôi thu được 83 lượt từ có nguồn gốc tiếng Pháp và tiếng

Anh, chiếm khoảng 3 %.

2.1.3. Đặc điểm từ vựng xét theo phạm vi sử dụng

2.1.3.1. Từ ngữ nghề nghiệp

2.1.3.2. Từ khẩu ngữ

a. Từ ngữ thưa gửi: Đây là từ ngữ chuyên dụng cho phát

thanh viên của đài truyền thanh. Cấu trúc từ ngữ thưa gửi bao gồm:

Thưa, kính thưa + danh từ chỉ chức vụ, danh từ xưng gọi.

Khảo sát trong 35 chương trình phát thanh hằng ngày của

Đài, tác giả thu được 5.186 lượt từ xưng hô. Biểu hiện trong bảng

thống kê sau:

Bảng 2.1. Bảng thống kê các lớp từ xưng hô trong các chương trình

phát thanh hằng ngày của Đài

Lớp từ thường sử

dụng

Trường hợp sử

dụng

Tần số

xuất

hiện

Lớp từ

khẩu

ngữ

Kính thưa, kính chào,

xin kính chào, xin

phép, xin phép được,

trân trọng cảm ơn,

kính chào và hẹn gặp

lại…

Mở đầu hoặc kết

thúc bản tin; ngắt

bản tin, chuyển đoạn

bản tin

2786

lượt từ

11

b. Từ xưng hô: Đây là lớp từ dùng để gọi và đáp bao gồm đại

từ và danh từ thân tộc dùng như đại từ.

- Đại từ: đồng chí

- Bằng danh từ: tên riêng, tên chức vụ UVBTV, Phó Chủ tịch

Thường trực, Bí thư, Chủ tịch…

c. Từ chỉ địa danh

Bản tin của đài địa phương thì vai trò của địa danh là rất

quan trọng vì chúng gắn với việc nêu gương, thông tin về những đơn

vị hành chính. Qua khảo sát ở các chương trình thời sự của Đài TT –

TH Huyện Đại Lộc thì mỗi tin, số lượng danh từ riêng chiếm từ 15%

số lượng thông tin trở lên. Nó cũng có vai trò như gọi tên nhưng một

bên là gọi tên người thì đây là gọi tên đất, vùng đất.

2.1.3.3. Từ địa phương

Từ địa phương là những từ được sử dụng hạn chế ở một hoặc

vài địa phương nào đó. Từ địa phương là một bộ phận của phương

ngữ. Phương ngữ là ngôn ngữ của một địa phương bao gồm cả mặt

ngữ âm, từ vựng lẫn ngữ pháp.

Thông thường trong các bản tin phát thanh, số lượng dùng từ

địa phương khá ít. Khảo sát 30 chương trình phát thanh của Đài, tác

giả thống kê được có 112 từ địa phương.

Bảng 2.2. Bảng thống kê các lớp từ địa phương trong các chương

trình phát thanh hằng ngày của Đài

Lớp từ ngữ văn

hóa thường sử

dụng

Trường hợp sử

dụng

Tần

số

xuất

hiện

Lớp từ

địa

phương

Heo nái, làm ăn,

cá tràu, đua ghe,

đu đủ, bà con…

Dùng trong các

bản tin phát thanh

112

lượt

từ

12

2.2. Đặc điểm ngôn ngữ chương trình phát thanh xét trên phương

diện ngữ âm

2.2.1 Ngữ điệu

Ngữ điệu là một hiện tượng siêu đoạn tính xảy ra trong quá

trình nói năng. Ngữ điệu là đặc trưng phổ quát của mọi ngôn ngữ.

Ngữ điệu được tạo thành từ hoạt động của các đặc trưng vật lí cơ bản

và sự thống nhất các yếu tố đặc trưng đó như âm điệu, cường

độ, trường độ, tốc độ của lời nói, nó là phương thức qua trọng để tạo

lập phát ngôn và chỉ ra nghĩa của phát ngôn.

2.2.2 Chức năng ngữ pháp của ngữ điệu

a. Chức năng đánh dấu câu:

b. Chức năng biến những khúc đoạn ngôn từ phi câu thành câu

c. Xác định giá trị ngôn trung cho các phát ngôn.

2.2.3 Đặc điểm về ngữ điệu

2.2.3.1. Ngữ điệu thể hiện các chức năng ngữ pháp

a. Ngữ điệu ở dạng câu đơn

Câu đơn là câu được cấu tạo bởi một cụm chủ vị . Hầu hết từ

đơn được sử dụng trong các chương trình phát thanh đều là từ thuần

Việt, một âm tiết (1 tiếng). Trong đó, chủ yếu các từ loại được sử

dụng là danh từ, động từ, tính từ…

b. Ngữ điệu ở dạng câu ghép

Câu ghép là câu chứa từ 2 cụm chủ vị trở lên. Tất cả các kiểu

câu ghép thông thường có chung một kiểu cấu tạo ngữ điệu là cao –

thấp – cao. Nếu như ở câu đơn ngữ điệu tập trung ở một tiêu điểm thì

ở câu ghép ngữ điệu tập trung ở nhiều tiêu điểm.

c. Ngữ điệu ở dạng câu trần thuật

Câu trần thuật là câu thường được dùng để xác nhận, kể lại,

mô tả sự vật với các đặc trưng nào đó hoặc một sự kiện với các chi

tiết nào đó. Ngữ điệu ở dạng câu trần thuật tạo ấn tượng chung là

vận động theo hướng nằm ngang, đều giọng, mang ý nghĩa diễn giải,

liệt kê các nội dung của thông tin.

d. Ngữ điệu ở dạng câu nghi vấn, cầu khiến

Câu nghi vấn/ cầu khiến là câu được dùng để nêu lên những

điều hoài nghi, thắc mắc hoặc chưa biết còn phải chờ đợi sự trả lời,

13

giải thích của một người nào đó. Ở câu nghi vấn, ngữ điệu thường

tạo ấn tượng thính giác thấp ở đầu và rất cao ở phần kết thúc.

2.2.3.2 Ngữ điệu thể hiện chức năng biểu cảm

Lời nói hàng ngày có ngữ điệu tình thái vô cùng phong phú.

Cách nhấn nhá giọng như dằn mạnh, kéo dài, lên xuống, luyến láy ở

những từ trọng tâm hoặc từ đứng cuối câu, tạo nên ngữ điệu đặc thù

mà chúng ta gọi là ngữ điệu tình thái thể hiện những hành vi ngôn

ngữ khác nhau.

2.2.3.3 Ngữ điệu thể hiện chức năng hàm ý

Các cung bậc thể hiện của ngữ điệu hàm ý thể hiện ở các

dạng sau:

- Câu kể, câu trần thuật sẽ mang hàm ý nghi vấn khi các câu

này được phát âm với ngữ điệu cao, tập trung ở điểm phân bổ của

ngữ điệu cấu tạo.

- Nội dung thông tin sẽ mang hàm ý phủ định nếu được thể

hiện ngôn bản ở dạng ngữ điệu, tập trung ở điểm phân bố của ngữ

điệu cấu tạo.

- Nội dung thông tin sẽ mang hàm ý thỉnh cầu nếu được

phát âm với ngữ điệu cực mạnh, tập trung ở tiêu điểm thông tin.

2.2.3.4 Ngữ điệu thể hiện chức năng dụng học

Thứ nhất: Ngữ điệu cao, được sử dụng trong hành vi tại lời

nghi vấn.

Thứ hai : Ngữ điệu cao trung bình, được sử dụng trong hành

vi tại lời khằng định, bổ sung luận cứ.

Thứ ba : Ngữ điệu thấp, sử dụng trong hành vi tại lời phán

đoán, ngờ vực.

Thứ tư : Ngữ điệu rất cao, sử dụng trong hành vi tại lời đề nghị.

Chức năng của thanh điệu trong ngữ điệu: Thanh điệu tiếng

Việt đối lập nhau ở hai cao độ cơ bản: cao độ cao và cao độ thấp. Đó

là sự đối lập về âm vực. Tiếng Việt có 6 thanh điệu gồm ngang,

huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Các thanh điệu tiếng Việt có chức năng

khu biệt nghĩa. Thanh điệu tạo cho tiếng Việt có tính nhạc, có vần, có

điệu, trầm bổng, nhịp nhàng. Phát âm đúng, rõ các thanh điệu để

truyền tải đúng thông tin ngữ nghĩa là yêu cầu quan trọng, đặc biệt là

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!