Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Đặc điểm điều kiện khí tượng, thủy văn và động lực biển ven bờ khu vực bãi tiên vịnh nha trang
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
Đồ án tốt nghiệp Đại Học CBHD : TS. Nguyễn Bá Xuân
SVTH : Đỗ Đức Dự Lớp 43 HDH
1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC ĐIỀU KIỆN KHÍ
TƯỢNG, THUỶ VĂN VÀ ĐỘNG LỰC, TẠI VỊNH NHA TRANG
I.1. Đặc điểm vị trí địa lý.
Vịnh Nha Trang là một vịnh nhỏ nằm sâu trong nội địa, xung quanh được bao
bọc bởi các đảo vừa và nhỏ, đảo lớn nhất là đảo Hòn Tre.
Vịnh Nha Trang rộng khoảng 124 km2
, giới hạn tọa độ địa lý 12o
09 – 12o
22N
và 109o
12 – 109o
22’E. Phía lục địa giới hạn bởi đường bờ, dài khoảng 28 km từ mũi
Hòn Khô đến mũi Cù Linh. Phần biển khơi ngoài giới hạn bởi đường đẳng sâu 50 m
và co hàng trục đảo lớn nhỏ tạo thành vành đai che chắn bên ngoài. Ở phía nam vịnh,
địa hình đáy đốc hơn phía Bắc. Giữa vịnh có một rãnh sâu (kênh ngầm ) chạy theo
hướng Tây Bắc – Đông Nam. Phần cửa vịnh phía đông có dải san hô ngầm
“Grandbanc”, án ngữ như một kè chắn sóng tự nhiên bảo vệ cho bãi tắm dọc thành phố
Nha Trang.
Vịnh Nha Trang được hình thành cách đây 18.000 năm (đường bờ cổ điển nằm
gần Hòn Hố, ở độ sâu 37m). Vịnh thông ra biển qua 2 cửa: ở phía Đông Bắc và phía
Tây Nam. Với độ sâu trung bình hơn 10 m, cảng Nha Trang có thể tiếp đón tàu đến 2
vạn tấn và các loại tàu hành khách, tàu du lịch lớn nhất thế giới.
Vịnh Nha Trang có nhiệt độ nước trung bình 26oC (dao động 24 – 29oC), ấm áp
quanh năm. Nhiệt độ cao nhất vào VI, VII vàVIII. Lạnh nhất vào tháng XII và I.
Tốc độ gió trung bình là 2.6 m/s (dao động 2 – 5 m/s), chưa vượt quá giới hạn
bất lợi cho hoạt động con người.
Hệ thống thủy văn động lực mang tính hỗn hợp. Sóng cao trung bình 0,4 m, độ
cao sóng cực đại là 4.0 đến 4.5m, chu kỳ trung bình 5.5 – 6.0s. Do địa hình tương đối
dốc, nên sóng lừng tác động mạnh, đặc biệt là vào thời gian từ tháng IX cho đến tháng
IV năm sau.
Tốc độ dòng chảy trung bình không quá 40 cm/s. Trên tầng mặt dòng chảy theo
hướng gió, có tốc độ đạt 20 cm/s. Ở các tầng sâu, dòng chảy có tốc độ nhanh hơn 1,5 –
2 lần so với tầng mặt.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đồ án tốt nghiệp Đại Học CBHD : TS. Nguyễn Bá Xuân
SVTH : Đỗ Đức Dự Lớp 43 HDH
2
Vùng cửa vịnh Nha Trang có hiện tượng nước trồi với tốc độ trồi dưới nước sâu
lên đạt giá trị 10-3
cm/s. Hiện tượng này đã tạo ra những đặc trưng hải dương học, sinh
thái học hết sức đặc biệt và thú vị, có giá trị khoa học và thực tiễn lớn.
Các tai biến thiên nhiên như giông, bão, lũ lụt thường sảy ra trong những tháng VIII –
XII. Lịch sử còn ghi lại những trận bão lớn đổ bộ vào Nha Trang như cơn bão ngày
9/XI/1988, cơn bão ngày 10/XI/1993 đều có tốc độ khoảng 30 m/s. Bão thường kèm
theo mưa, lụt như lượng mưa ngày 2/XII/1986, ngày 16/III/1991… đều lớn hơn 400 –
600 mm/ngày. Do cao trình ven bờ chỉ khoảng 0,7 m, dưới độ cao thủy triều trung
bình, nên mưa bão, triều cường, lũ lụt… là những tai biến có tác hại to lớn đối với hoạt
động ven bờ.
Vịnh Nha Trang có 2 cửa sông lớn đổ ra, đó là cửa sông Cái và cửa sông Đồng
Bò. Hai cửa sông này làm cho chế độ thủy động lực nơi đây phong phú.
I.2. Tình hình nghiên cứu của khu vực.
Nha Trang nằm ở vị trí được thiên nhiên ưu đãi rất nhiều về vị trí địa lý, khí
hậu, sông ngòi… Nơi đây tập chung dân cư đông đúc, thu hút rất nhiều khách du lịch,
đang là một trong những thành phố phát triển nhất nước, đặc biệt về dịch vụ du lịch và
thương mại. Xung quanh được bao bọc bởi nhiều hòn đảo và khí hậu mát mẻ. Do đó
vịnh Nha Trang đang được xem là tâm điểm của du lịch nó thu hút được rất nhiều
khách du lịch tới đây. Vì vậy việc nghiên cứu khí tượng, thủy văn và động lực biển, đi
đôi với bảo vệ môi trường biển ở nơi đây đang được chú ý rất nhiều.
Ven bờ vịnh Nha Trang có viện Hải Dương Học Nha Trang, và nhiều cơ quan,
tổ chức, trung tâm nghiên cứu về khí tượng thủy văn và động lực biển, hoặc ít nhiều
quan tâm về những vấn đề này như: Trung Tâm Khí Tượng Nam Trung Bộ , Trung
Tâm Nhiệt Đới Việt Nga, Sở Công Nghệ Môi Trường Khánh Hòa, Đại Học Thủy
Sản… Do vậy việc nghiên cứu về Vịnh Nha Trang diễn ra rất sôi động, đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về vịnh Nha Trang. Trong khuôn khổ báo cáo này và sự hiểu
biết của tôi, tôi được biết các công trình nghiên cứu về khí tượng thủy văn và động lực
biển tại vịnh Nha Trang như: Những công trình nghiên cứu của phòng vật lý Viện Hải
Dương Học về xói lở bồi tụ sông Cái Nha Trang trong các năm1989, 1990, 1991, các
tính toán một số thông số gió, mực nước, dòng chảy vùng biển Nha Trang năm 1996,
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đồ án tốt nghiệp Đại Học CBHD : TS. Nguyễn Bá Xuân
SVTH : Đỗ Đức Dự Lớp 43 HDH
3
các nghiên cứu ảnh hưởng của Sông Cái Nha Trang đến điều kiện thủy thạch động lực
vùng cửa sông năm 1998. Nghiên cứu về đặc trưng động lực vùng biển Nha Trang
năm 1997, 1999, của Nguyễn Kim Vinh. Nghiên cứu tính toán về đặc điểm sóng vùng
cửa sông Cái Nha Trang trong các trường gió điển hình của Bùi Hồng Long, Lê Đình
Mầu. Đặc điểm vùng ven bờ vịnh Nha Trang, của Lã Văn Bài, Nguyễn Kim Vinh,
Chiêu Kim Quỳnh, Phạm Xuân Dương. Đặc điểm động lực hệ dòng chảy vùng của
sông Cái và vịnh Nha Trang trong mùa mưa và mùa khô, của Nguyễn Bá Xuân. Biến
đổi mực nước biển ở vịnh Nha Trang, của Nguyễn Kim Vinh. Ngoài ra còn rất nhiều
công trình nghiên cứu khác mà tôi không liệt kê ở đây.
Quanh vịnh được bố trí các trạm đo đạc khí tượng, đo các yếu tố gió, nhiệt
độ…, liên tục qua các ốp, gồm các đài khí tượng Nha Trang, đài khí tượng Bãi Tiên.
Viện Hải Dương Học Nha Trang có trạm đo đạc mực nước tại Cầu Đá, để đo đạc mực
nước liên tục qua các giờ để tính dao động mực nước, nghiên cứu chế độ thuỷ triều,
nghiên cứu dao động mực nước trung bình nhiều năm, để từ đó dự báo mực nước cho
khu vực vịnh Nha Trang.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu, với nhiều mục đích khác nhau. Trên đây là
những hiểu biết của tôi về vấn đề này. Trong đồ án tốt nghiệp này chỉ là sự đánh giá lại
và bằng những kết quả tính toán, để khẳng định lại những kết quả của: Báo cáo kết quả
đo đạc khảo sát hải văn tại khu vực dự án:”Đê lấn biển và hạ tầng kỹ thuật khu biệt thự
khóm Đường Đệ – Nha Trang”
I.3. Một số đặc điểm tự nhiên của khu vực Bãi Tiên.
Vùng ven biển Bãi Tiên là vùng nước ven biển, thuộc vùng biển Vĩnh Hoà,
thuộc vịnh Nha Trang. Khu vực nghiên cứu (hình 1). Khu vực có sườn rất dốc, bên
trên là dãy núi cao chắn. Do vậy đặc điểm khí tượng, thuỷ văn và động lực nơi đây ảnh
hưởng rất lớn vào địa hình.
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đồ án tốt nghiệp Đại Học CBHD : TS. Nguyễn Bá Xuân
SVTH : Đỗ Đức Dự Lớp 43 HDH
4
Hình 1: Vị trí khu vực nghiên cứu.
I.3.1. Điều kiện địa chất.
Theo khảo sát của công ty TVXD giao thông công cộng Khánh Hoà, trong khu
vực xây đê chắn sóng, các lớp đất từ trên xuống dưới trong phạm vi nghiên cứu được
chia 4 lớp.
Lớp 1: Là lớp đất đá trên cùng có bề dày nhỏ hơn 2m và thay đổi theo dọc tuyến
đường. Địa chất ở đây chủ yếu là hạt mịn, màu xám vàng, đồng nhất, ở trạng thái chặt.
Lớp 2: Là lớp địa chất có bề dày biến đổi trong khoảng từ 2m - 8m. Ở đây chủ yếu
tồn tại các hạt trung lẫn vụn san hô, màu xám đen, trạng thái đến trạng thái xốp.
Lớp 3: Là lớp chủ yếu bùn cát bột pha bùn sét và vỏ sò, có màu xám đen, ở trạng thái
nhão. Bề dày của lớp này biến đổi từ 3m – 10m.
Lớp 4: Là lớp đá phong hoá liolit, có thành phần là: Cát bột pha sét, sét lẫn dăm, sạn
phong hoá (chứa đá tảng đường kính từ 20 – 35 cm). Lớp địa chất này ở trạng thái
cứng, màu xám xanh, nâu và vàng.
I.3.2. Chế độ gió.
Hai hiện tượng thời tiết đáng chú ý ở đây là chế độ gió mùa và bão:
Trong gió mùa đông (khoảng từ tháng X – XI năm trước đến tháng II – III năm
sau), hướng gió thịnh hành là gió Đông – Bắc có tần suất khá cao. Còn trong mùa gió
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đồ án tốt nghiệp Đại Học CBHD : TS. Nguyễn Bá Xuân
SVTH : Đỗ Đức Dự Lớp 43 HDH
5
mùa hè, hướng gió chiếm ưu thế là hương Tây – Nam. Tốc độ gió vào khoảng 2-5m/s
chiếm tần suất lớn cho cả hai mùa.
Khu vực tỉnh Khánh Hoà là nơi có tần suất xuất hiện bão tương đối thấp và
thường sảy ra vào tháng X và XI. Theo thống kê từ năm 1956 – 1995, tần suất bão và
ATNĐ theo vĩ độ thuộc vùng biển và lân cận là khoảng 5.34 – 6.49%.
I.4. Sơ đồ bố trí các trạm nghiên cứu.
H 1: j: 12o
16’55.9’’N, l: 109o
12’11.5’’E
H 2: j: 12o
17’34.4’’N, l: 109o
12’52.2’’E
H3: j: 12o
17’40.5’’N, l: 109o
13’42.8’’E
Hình 2: Sơ đồ bố trí các trạm quan trắc
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com