Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Cụm từ cân đối từ văn học dân gian đến văn học thành văn
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
LƯU MINH DỰ
CỤM TỪ CÂN ĐỐI TỪ VĂN HỌC DÂN GIAN ĐẾN
VĂN HỌC THÀNH VĂN
(KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI VÀ
TRUYỆN KIỀU NGUYỄN DU)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
LƯU MINH DỰ
CỤM TỪ CÂN ĐỐI TỪ VĂN HỌC DÂN GIAN ĐẾN
VĂN HỌC THÀNH VĂN
(KHẢO SÁT QUA THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI VÀ
TRUYỆN KIỀU NGUYỄN DU)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS PHẠM THỊ PHƯƠNG THÁI
Thái Nguyên – 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên,15 tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Lưu Minh Dự
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa
học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp
đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS.TS Phạm Thị Phương Tháiđã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên,15 tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Lưu Minh Dự
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu................................................................ 5
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 5
5. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn.................................................................................. 6
Chương 1: CỤM TỪ CÂN ĐỐI – THÓI QUEN DIỄN ĐẠT CỦA NGƯỜI
VIỆT VÀ TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN .................................................... 7
1.1. Khái lược về cụm từ cân đối ...................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm cụm từ cân đối ....................................................................... 7
1.1.2. Giá trị của cụm từ cân đối .................................................................... 10
1.2. Cụm từ cân đối từ lối diễn đạt trong văn hóa dân gian đến văn học
dân gian ....................................................................................................... 11
1.2.1. Cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm.................................................... 11
1.2.2. Khảo sát phân loại cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm ..................... 12
1.2.3. Ý nghĩa của cụm từ cân đối trong văn khấn Nôm................................. 16
1.3. Cụm từ cân đối trong văn học dân gian ................................................... 17
1.3.1. Cụm từ cân đối được sử dụng trong tục ngữ, thành ngữ...................... 17
1.4. Cơ sở kiến tạo cụm từ cân đối.................................................................. 26
Tiểu kêt chương 1…………………………………………………………………..27
Chương 2: CỤM TỪ CÂN ĐỐI TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI....... 28
SỰ VẬN DỤNG VÀ SÁNG TẠO ................................................................. 28
2.1. Nguyễn Trãi và Quốc âm thi tập.............................................................. 28
2.1.1. Tác giả Nguyễn Trãi.............................................................................. 28
2.1.2. Sự nghiệp thơ văn.................................................................................. 30
iv
2.1.3. Quốc âm thi tập..................................................................................... 31
2.2. Cụm từ cân đối trong Quốc âm thi tập..................................................... 32
2.2.1. Sự vận dụng văn học dân gian và sáng tạo đa dạng cụm từ cân đối 4
chữ trong Quốc âm thi tập........................................................................ 32
2.2.2. Sự vận dụng văn học dân gian và sáng tạo cụm từ cân đối 6 chữ trong
Quốc âm thi tập......................................................................................... 41
2.3. Ý nghĩa của việc sử dụng cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi... 46
Tiểu kết chương 2……………………………………………………………………47
Chương 3: CỤM TỪ CÂN ĐỐI TRONG TRUYỆN KIỀU– SỰ KẾ THỪA
TÀI TÌNH VÀ ĐIÊU LUYỆN........................................................................ 49
3.1. Nguyễn Du với Truyện Kiều.................................................................... 49
3.1.1. Cuộc đời ................................................................................................ 49
3.1.2. Sự nghiệp thơ văn.................................................................................. 51
3.1.3. Truyện Kiều........................................................................................... 51
3.2. Nghệ thuật sử dụng cụm từ cân đối trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ........ 54
3.2.1. Sự kế thừa tài tình của Nguyễn Du trong việc sử dụng cụm từ cân đối chéo 55
3.2.2. Vận dụng kết cấu của cụm từ cân đối chéo để kiến tạo ra tiểu đối trong
thơ lục bát ................................................................................................. 62
3.3. Ý nghĩa của việc sử dụng cụm từ cân đối trong Truyện Kiều Nguyễn Du...... 77
Tiểu kêt chương 3…………………………………………………………........... 80
Kết luận ……………………………………………………………………………...82
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 83
PHỤ LỤC........................................................................................................ 85
PHỤ LỤC 1..................................................................................................... 85
PHỤ LỤC 2................................................................................................... 129
PHỤ LỤC 3.................................................................................................... 133
PHỤ LỤC 4.................................................................................................... 136
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Như một quy luật nhất thành bất biến, các thi hào dân tộc bao giờ cũng
chịu ảnh hưởng và tiếp thu mạch nguồn ngôn ngữ dân gian. Dante – niềm tự
hào của nền thi ca Ý thế kỷ XIII đã coi ngôn ngữ dân gian Ý “đóng vai trò trụ
cột”; Lomonosov – thi hào vĩ đại nước Nga thế kỷ XIX xem ngôn ngữ dân gian
là nguồn ngữ liệu vô giá. Những tuyệt phẩm thơ Nôm của nhà văn hóa Đại Việt
– Nguyễn Trãi và thi hào dân tộc Nguyễn Du cũng đều khởi nguyên từ ngôn
ngữ dân gian.
Xuất phát từ đặc trưng giàu âm thanh, tiết tấu của tiếng Việt, từ trước
đến nay người Việt Nam rất ưa lối nói vần vè, cân đối trong cách diễn đạt. Từ
giao tiếp thông thường đến sáng tác văn chương, người Việt đều có thói quen,
sở thích nói vần vè, cân đối, nhịp nhàng. Nhã thú diễn đạt đăng đối, vần điệu
của người Việt có lẽ bắt nguồn từ ưu thế đặc trưng của tiếng Việt – loại hình
ngôn ngữ đơn lập, biểu âm cùng hệ thống thanh điệu phong phú. Nhiều nhà thơ
đã vận dụng và phát huy thói quen, sở thích trong lối diễn đạt của dân tộc trong
sáng tác bằng tiếng Việt. Có lẽ, trong suốt hành trình 10 thế kỷ của văn học
trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai thi sĩ chú tâm vận dụng
nhiều hơn cả đặc điểm diễn đạt nói trên. Có thể nhận thấy, từ cách diễn đạt bằng
cụm từ cân đối vốn tồn tại trong lối diễn đạt dân gian, thi hào Nguyễn Trãi và
Nguyễn Du đã sáng tạo rất nhiều những cụm từ cân đối và cả những biến thể
của nó. Với khả năng thi công tài tình, Nguyễn Trãi và Nguyễn Du đã tạo nên
vẻ đẹp hài hòa của ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân, gần gũi với lối
diễn đạt của người bình dân. Đồng thời, với làm giàu đẹp lên rất nhiều ngôn
ngữ dân gian, nâng ngôn ngữ giao tiếp đời sống hàng ngày thành ngôn ngữ văn
học. Đó là cách tốt nhất tự nhiên nhất và hiệu quả để góp phần đưa tiếng Việt
trở thành ngôn ngữ thống nhất của quốc gia.
2
Cho đến thời điểm hiện tại, mặc dù đã có nhiều nhà nghiên cứu phê bình
đánh giá, nhận định, nghiên cứu về thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều của
Nguyễn Du, tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu
về kế thừa, sáng tạo cụm từ cân đối trong sáng tác dân gian đến văn học thành
văn (khảo sát qua thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều Nguyễn Du). Chúng
tôi cho rằng việc nghiên cứu Quốc âm thi tập và Truyện Kiều bằng việc đi sâu
khám phá cụm từ cân đối sẽ là hướng tiếp cận phù hợp và đáng tin cậy cho việc
đánh giá khách quan về những đóng góp của hai đại thi hào về nền thơ dân tộc
viết bằng tiếng Việt, về sự phát triển của ngôn ngữ, văn hóa Việt Nam. Đó là lí
do, chúng tôi lựa chọn đề tài “Cụm từ cân đối từ văn học dân gian đến văn học
thành văn (Khảo sát qua thơ Nôm Nguyễn Trãi và Truyện Kiều Nguyễn Du)”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Những công trình đánh giá chung về Nguyễn Trãi và thơ Nôm Nguyễn Trãi
Với tập thơ vĩ đại Quốc âm thi tập gồm 254 bài, Nguyễn Trãi được xem
là nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ chữ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ
Nôm đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Đây
cũng là lí do khiến các thi nhân và giới nghiên cứu cùng quan tâm viết bình
giảng, bình thơ, cảm thụ thơ Nôm Nguyễn Trãi chi tiết với từng đề tài, từng bài
thơ, thậm chí từng câu chữ. Ở phương diện ngôn ngữ dân gian trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi cũng đã được khá nhiều người nghiên cứu, nhưng cũng chỉ dừng
lại ở một khía cạnh hay phương diện nhất định nào đó, do vậy chưa những bài
nghiên cứu về vấn đề cụm từ cân đối.
Nghiên cứu về thơ văn Nguyễn Trãi trong đó có nhiều bài viết đề cập
đến ảnh hưởng của ngôn ngữ dân gian trong thơ Quốc âm thi tập của những tác
giả lớn như: Hoàng Trung Thông, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Văn Đồng, Nguyễn
Văn Hoàn, Đặng Thai Mai, Bùi Văn Nguyên… mỗi nhà nghiên cứu có cách
tiếp cận và nhận định riêng nhưng điểm chung là vẫn khẳng định sự kế thừa có
3
phần sáng tạo của Ức Trai khi sử dụng những từ ngữ bình dân, thành ngữ, tục
ngữ vào sáng tác của mình. Phần lớn các câu ca dao tục ngữ mà ông dùng không
giữ nguyên trạng thái vốn có, mà được nhào nhuyễn lại, được biến hóa một
cách tài tình để hình thành kết cấu nghệ thuật sinh động.
Bên cạnh đó tác giả Nguyễn Thiên Thụ cũng đã đề cập đến sự phong phú
về thành ngữ và tục ngữ trong Quốc âm thi tập, bài viết“Ảnh hưởng và địa vị
của Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam” phần nào chứng tỏ Nguyễn Trãi đã
sử dụng tài nguyên phong phú của nền văn chương Việt Nam, đó là ca dao, tục
ngữ.
Song song đó Nguyễn Trãi và cuộc đời cũng đã được các nhà nghiên cứu
phê bình khai thác trên bình diện tác giả, tác phẩm hay nội dung, nghệ thuật.Đó
là nguồn tư liệu quý giá và thuận lợi cho người viết thực hiện khóa luận này.
Những sách báo tuy viết về về Nguyễn Trãi rất nhiều nhưng chỉ đi sâu nghiên
cứu một cách khái quát chung. Vì vậy, trong bài viết này chúng tôi tìm hiểu
cụm từ cân đối từ văn học dan gian đến thơ Nôm Nguyễn Trãi sẽ đi sâu vào
cách sử dụng, lựa chọn và sáng tạo cụm từ cân đối trong thơ Nôm.
2.2. Những công trình đánh giá chung về Nguyễn Du và Truyện Kiều
Truyện Kiềumột kiệt tác nghệ thuật của nền văn học nước nhà. Truyện
Kiều được nhân dân ta đón nhận một cách say mê, nhiều lúc đã trở thành vẫn
đề xã hội, tiêu biểu. Không chỉ được đón nhận ở tầng lớp thị dân, Truyện Kiều
còn được tầng lớp trên say mê đọc, luận.
Ngày nay các nhà nghiên cứu trên thế giới vẫn đánh giá rất caoTruyện
Kiều. Dịch giả người Pháp Rơ-Ne-Crir-Sắc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài
viết dài 96 trang, trong đó có đoạn: “Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh
một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kì quốc gia nào, thời đại nào” Ông so
sánh với văn học Pháp:“Trong tất cả các nền văn chương Pháp không một tác
4
phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sung kính và yêu chuộng bằng quyển
truyện này ở Việt Nam”.
Sở dĩ như thế là vì ngoài nội dung sâu sắc phong phú, Truyện Kiều còn là
một tác phẩm chứa đựng tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. Ở Truyện Kiều ngôn
ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân đã kết hợp với nhau bổ sung cho nhau, phát
huy cao độ những mặt tích cực của nó. Thông qua Truyện Kiều người đọc phần
nào thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc cùng với tài năng bạc thầy của Nguyễn
Du trong việc sử dụng ngôn ngữ. Hệ thống từ ngữ được tác giả sử dụng rất tự
nhiên, dung dị, mang đậm hơi thở của cuộc sống.Trong đó các thành ngữ được
Nguyễn Du sử dụng rất hiệu quả. Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ mang tính
dân tộc sâu sắc. Nó thường xuyên có mặt trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của
mỗi người dân trong cuộc sống. Bất kì ở nới đâu, trong hoàn cảnh nào thì thành
ngữ cũng có thể xuất hiện. Thành ngữ là một tài sản quý báu, nói cách khác thành
ngữ được sáng tạo trong qua trình sinh hoạt quần chúng. Tất cả các đặc điểm
trên làm cho thành ngữ là một đối tượng hấp dẫn đối với giới nghiên cứu và trong
Truyện Kiều không là một ngoại lệ. Nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt nói
chung có thể nói đến công trình nghiên cứu vềTục ngữ ca dao của Phạm Quỳnh
được công bố vào năm 1921. Tuy nhiên những năm 60 của thế kỉ XX, việc
nghiên cứu thành ngữ mới có cơ sở khoa học nghiêm túc. Cái mốc quan trọng
trong việc nghiên cứu thành ngữ học Việt Nam xuất hiện bản từ điển Thành ngữ
tiếng Việt1976 của Nguyễn Lực và Lương Văn Đang. Công trình này tuy còn
chưa bao quát được hết tất cả các thành ngữ trong tiếng Việt nhưng nó đã cung
cấp cho các nhà ngôn ngữ học và những sai quan tâm đến vấn đế này một tài liệu
to lớn. Năm 1989, Nguyễn Lân xuất bản cuốn Từ điển tục ngữ và thành ngữ Việt
Nam Gần đây nhất là cuốn Phân biệt thành ngữ và tục ngữ bằng mô hình cấu
trúc của Triều Nguyên. Như vậy cho đến nay thành ngữ vẫn đang được tiếp cận,
khám phá theo nhiều khía cạnh khác nhau nhằm làm sáng rõ những giá trị phong
phú của đơn vị từ này. Rất nhiều bài nghiên cứu vấn đề này trong các sáng tác
5
của các tên tuổi lớn như Hồ Chí Minh, Nguyên Hồng, Tản Đà, Tô Hoài…đã
được tiến hành trong thời gian gần đây nhưng vẫn chưa có công trình nào tìm
hiểu kĩ lưỡng về nghệ thuật dùng thành ngữ, dùng Cụm từ cân đối của Nguyễn
Du trong Truyện Kiều. Trong cuốn Những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương
Truyện Kiều (2004) của Phạm Đan Quế cũng đã đề cập đến việc vận dụng thành
ngữ trong Truyện Kiều nhưng mới ở mức độ khái quát. Những ý kiến, những
đánh giá trên là định hướng quan trọng cho chúng tôi nghiên cứu cụm từ cân đối
từ văn học dân gian đến văn học thành văn (Khảo sát qua thơ Nôm Nguyễn Trãi
và Truyện Kiều Nguyễn Du)
3.Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu đối tượng là cụm từ cân đối trong văn học,
văn hóa dân gian đến văn học thành văn trên cơ sở khảo sát qua Quốc âm thi tập và
Truyện Kiều.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về cụm từ cân đối được sử dụng trong dân gian, đặc biệt
trong thành ngữ và văn khấn Nôm đến văn học thành văn, được Nguyễn Trãi
và Nguyễn Du vận dụng kế thừa sáng tạo trong sáng tác thơ ca bằng tiếng Việt
để thấy được mạch ngầm từ văn hóa dân gian đến sáng tác của hai đại thi hào
dân tộc Nguyễn Trãi và Nguyễn Du trong sự thống nhất phát huy giá trị ngôn
ngữ dân tộc.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra những yêu cầu chính sau:
- Khảo sát cụm từ cân đối trong văn học dân gian.
- Khảo sát cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.
6
- Khảo sát cụm từ cân đối trong Truyện Kiều- Nguyễn Du.
- Nghiên cứu tác dụng của cụm từ cân đối trong văn học dân gian và
trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều Nguyễn Du.
- Nghiên cứu một số tài liệu liên quan là cơ sở lí thuyết, lý luận cho đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài trên, chúng tôi sử dụng một số phương
pháp sau:
+ Phương pháp thống kê phân loại: Sử dụng trong quá trình khảo sát và
thống kê số lần sử dụng cụm từ cân đối trong văn học dân gian và trong thơ
Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều-Nguyễn Du.
+ Phương pháp so sánh đối chiếu: Sử dụng thao tác đối chiếu giữa cụm
từ cân đối được sử dụng trong văn học dân gian và cụm tư cân đối được sử
dụng trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều Nguyễn Du. So sánh tần số sử
dụng cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi với cụm từ cân đối được sử
dụng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
+ Phương pháp hệ thống: Nhằm hệ thống lại việc sử dụng và tác dụng
của cụm từ cân đối trong dân gian, trong sáng tác của tác giả Nguyễn Trãi và
Nguyễn Du.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở các thao tác phân tích, chúng
tôi tiến hành tổng hợp, đánh giá, đưa ra các luận điểm, các kết luận khoa học.
5. Phạm vi nghiên cứu
Cụm từ cân đối trong văn học dân gian, trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và
tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.
6. Đóng góp của luận văn
Chúng tôi hi vọng kết quả của luận văn sẽ có được những đóng góp sau:
7
+ Thông qua việc khảo sát thống kê các cụm từ cố định trong văn học
dân gian, thơ Nôm Nguyễn Trãi, Truyện Kiều – Nguyễn Du, chúng tôi hi vọng
sẽ góp thêm một lời khẳng định sự phong phú trong kho tàng dân gian Việt
Nam; sự sáng tạo và những đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du đối
với kho tàng ngôn ngữ văn học dân tộc thể hiện qua cụm từ cân đối.
+ Trong chừng mực nhất định, luận văn chứng minh một dấu ấn trong
thói quen diễn đạt rất đặc trưng của người Việt trong những tác phẩm được
đánh giá là kiệt tác của văn học Việt Nam thời trung đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cụm từ cân đối –thói quen diễn đạt của người Việt và trong
văn học dân gian
Chương 2. Cụm từ cân đối trong thơ Nôm Nguyễn Trãi - Sự vận dụng
chọn lọc và sáng tạo
Chương 3.Cụm từ cân đối trong Truyện Kiều Nguyễn Du- Sự kế thừa tài
tình và điêu luyện
Chương 1
CỤM TỪ CÂN ĐỐI – THÓI QUEN DIỄN ĐẠT CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ
TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN
1.1. Khái lược về cụm từ cân đối
1.1.1. Khái niệm cụm từ cân đối
Cụm từ cân đốilà cách gọi tên của ngữ có cấu trúc cân đối gồm hai vế.
Mỗi vế, ngoài số chữ trong bằng nhau, số chữ chẵn (có thể là bốn chữ, có thể
8
là sáu chữ), hài hòa cân đối về đối thanh đối ý, tạo ra tính nhạc trong câu. Cụm
từ cân đối yêu cầu phải đối về thanh điệu và đối về từ loại [25,tr.61].
Ví dụ:“Ăn vóc học hay”, “Ăn trông nồi ngồi trông hướng”.
Các câu trên có cấu trúc gồm hai vế với số chữ bằng nhau, đối thanh điệu
rất rõ ràng, ở cụm từ cân đối 4 chữ: “Ăn vóc học hay”, thanh trắc “vóc” đối với
thanh bằng “hay”. Trong cụm từ cân đối 6 chữ: “Ăn trông nồi ngồi trông
hướng”, các chữ trong câu bằng nhau có sự cân đối hài hòa, bắt vần với nhau
và cùng thanh điệu: “nồi”- “ngồi”. Trong ví dụ cụm từ cân đối 6 chữ có xuất
hiện đối về từ loại: danh từ “nồi” đối với danh từ “hướng”
Hình thức của cụm từ cân đối khá đa dạng có thể là cụm từ cân đối 4
chữ, cụm từ cân đối 6 chữ, cụm từ cân đối 8 chữ.
Ví dụ: Cụm từ cân đối 4 chữ:
“Ăn chắc mặc bền”, “Cơm lành canh ngọt”, “ Con dại cái mang”, “Cờ bí dí
tốt”, “Cốc mò cò xơi”, “Chó treo mèo đậy”…
Cụm từ cân đối 6 chữ:“Buôn có bạn bán có phường”, “Cơm chẳng lành,
canh chẳng ngọt”, “Của một đồng công một nén”, “Đâm bị thóc chọc bị gạo”…
Cụm từ cân đối 8 chữ: “Một lần ngại tốn, bốn lần chẳng xong”,“Nhà sạch
thì mát, bát sạch ngon cơm”, “Mỏng môi hay hớt, trớt môi nói thừa”…
Các từ trong cụm từ cân đối phải bắt vần với nhau, có thể là vần liền kề
hoặc cách vần. Vần liền kề có thể là 2 vần bằng, và có thể là 2 vần trắc. Trong
ví dụ về cụm từ cân đối 4 chữ, các chữ ở 2 vế có số tiếng bằng nhau. Các từ
trong câu là vần liền kề bắt vần với nhau.
Chẳng hạn, trong “Chó treo mèo đậy”, vần “eo” (treo – mèo) nằm liền
kề và bắt vần với nhau cùng vần bằng trong câu “Cốc mò cò xơi”. Hoặc trong
cụm từ cân đối, các chữ bắt vần liền kề với nhau và vần liền kề có thể là hai
9
vần trắc, có thể kể đến câu “Người sống đống vàng”, cùng bắt vần “ông” và
cùng vần trắc (sống – đống).
Có trường hợp các tiếng bắt vần với nhau nhưng không nằm liền kề
nhau.Ví như câu “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”, kiện và kiến bắt vần với
nhau nhưng nằm cách nhau bởi chữ “như”. Hay như trong câu “Gần mực thì
đen gần đèn thì rạng”,“đen” và “đèn” bắt vần với nhau và cũng nằm cách nhau
bởi chữ “gần”.
Trong cụm từ cân đối còn có sự hài thanh, hai từ gần nhau trong câu cùng
vần nhưng trái dấu. Trong câu “Ăn chắc mặc bền”, “chắc” và “mặc” cùng vần
“ăc” nhưng khác dấu, từ “chắc” là thanh trắc, từ “mặc” là thanh bằng. Trong
câu “Ăn cây táo rào cây bưởi” cũng có sự hài thanh như thế.
Về đối thanh:
Hai chữ vế sau cùng thanh nhưng trái thanh với hai chữ vế trước:
“Năm thê bảy thiếp” BB TT.
“Nòi nào giống đấy” BB TT.
“Khác máu tanh lòng” TT BB.
“Thấy quế phụ hương” TT BB.
Chữ thứ nhất vế trước đối chữ thứ nhất vế sau, chữ thứ hai vế trước với
chữ thứ hai vế sau cũng đối nhau như vậy:
“Bới lông tìm vết” TB BT.
“Đứt tay hay thuốc” TB BT.
“Bồi ở lở đi” BT TB.
“Suy chín xét xa” BT TB.
Trong trường hợp cụm từ có ba chữ cùng thanh thì chữ cuối cùng của
chữ chia vế nhất thiết phải đối nhau: