Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc của Malaya từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1975
PREMIUM
Số trang
233
Kích thước
3.5 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1231

Con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc của Malaya từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1975

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

--------------------------------

LÝ TƯỜNG VÂN

CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH

GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA MALAYA

TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẾN NĂM 1957

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH LỊCH SỬ

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

--------------------------------

LÝ TƯỜNG VÂN

CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH

GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA MALAYA

TỪ CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẾN NĂM 1957

Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới cận đại và hiện đại

Mã số: 62.22.50.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TSKH. Trần Khánh

2. TS. Vũ Công Quý

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan: Luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các kết quả và số liệu đƣợc nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận

của Luận án chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả Luận án

Lý Tường Vân

Lời cảm ơn

Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TSKH. Trần

Khánh, TS. Vũ Công Quý - hai người thầy trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện Luận

án và GS. Vũ Dương Ninh - người thầy không chỉ ủng hộ ý tưởng khoa học của

tôi ngay từ những ngày đầu tôi lựa chọn đề tài này mà còn chia sẻ với tôi các tư

liệu nghiên cứu liên quan đến Luận án, cùng nhiều thầy cô giáo khác đã cho tôi

những góp ý quí báu về chuyên môn.

Chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp ở Khoa Lịch

sử - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Viện Nghiên cứu Đông Nam

Á - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Khoa Sử học - Học viện Khoa học

Xã hội đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tôi học tập và nghiên cứu.

Tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Viện Nghiên cứu Châu Á (Asia

Research Institute) - Đại học Quốc gia Singapore (National University of

Singapore) đã cho tôi cơ hội được đến học tập và nghiên cứu tại Singapore và

Malaysia. Tại hai đất nước này, những cơ quan tôi đến làm việc như Viện

Nghiên cứu Đông Nam Á (Institute of Southeast Asian Studies), Lưu trữ Quốc gia

Singapore (National Archives of Singapore), Thư viện Quốc gia Singapore, Thư

viện Đại học Quốc gia Singapore và Lưu trữ Quốc gia Malaysia (Arkib Negara -

National Archives of Malaysia)… đã luôn tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi, giúp

tôi hoàn thành bản Luận án này.

Quĩ Sumitomo là nơi tôi được hợp tác trong các năm 2011-2012, không

chỉ cho phép tôi được trao đổi về chuyên môn khi thực hiện Đề tài “The

Japanese occupation of Malaya (1941-1945) and its impact on the development

of Malay political consciousness” mà nguồn tài trợ của Quĩ đã cho tôi điều kiện

tài chính để tôi có thể thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu thực địa của mình tại

Malaysia và Singapore.

Tôi gửi tới gia đình và bạn bè lời biết ơn sâu sắc nhất về mọi sự cảm

thông, sẻ chia và khích lệ.

Xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC

Trang

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ……………………………………………… i

DANH MỤC BẢN ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU ………………………………… ii

MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………....... 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ………………..

1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước …………………………………..

1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài …………………………………..

Nhận xét

10

10

14

25

Chương 2: MALAYA DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH THỰC DÂN CỦA ANH

(CUỐI THẾ KỈ XIX - ĐẦU THẾ KỈ XX)

27

2.1. Từ Vương quốc Hồi giáo Malacca đến thuộc địa Malaya của

Anh ...

27

2.1.1. Hồi quốc Malacca và những thế kỉ đầu tiếp xúc với phương Tây (1400-

1786)……………………………………………………………...

27

2.1.2. Malaya trở thành thuộc địa của Anh (1786-1914) …………............... 31

2.1.2.1. Thành lập Khu định cư Eo biển (Straits Settlements) ……………… 32

2.1.2.2. Quá trình mở rộng can thiệp vào các tiểu quốc Malay và củng cố

chế độ cai trị ở Malaya …………………………………….. 33

2.2. Tác động của chính sách thực dân của Anh ở Malaya………………. 40

2.2.1. Biến đổi cơ cấu kinh tế với vai trò chủ thể của ngoại kiều ……………….. 40

2.2.2. Hình thành xã hội đa tộc ngƣời và các nguyên nhân mâu thuẫn tộc ngƣời 43

2.2.3. Sự phát triển của đội ngũ trí thức ngƣời Malay ………………………. 47

2.2.4. Sự phát triển của báo chí bản địa ……………………………………….. 53

Tiểu kết chƣơng 2 …………………………………………………………. 56

Chƣơng 3: PHONG TRÀO DÂN TỘC CỦA NGƢỜI MALAY TRONG NHỮNG NĂM

GIỮA HAI CUỘC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI ……………… 58

3.1. Những yếu tố tác động ………………………………………………… 59

3.2. Phong trào cải cách dưới sự dẫn đường của đội ngũ trí thức tôn

giáo ..

64

3.3. Nhóm trí thức chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Anh và phong

trào đấu tranh vì “Quyền đặc biệt” của người Malay .…………..

……...

69

3.4. Phong trào dân tộc dưới sự lãnh đạo của nhóm trí thức cấp

tiến …..

75

Tiểu kết chương 3 …………………………………………………………… 83

Chương 4: CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA MALAYA (TỪ

SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II ĐẾN NĂM 1957)

85

4.1. Tác động của giai đoạn Nhật Bản chiếm đóng Malaya (1942-

1945) …..

85

4.1.1. Tầm quan trọng của Malaya trong chiến lược Đại Đông Á của Nhật Bản …. 85

4.1.2. Chính sách Quân sự hóa và Nhật Bản hóa xã hội Malaya ……………....... 86

4.1.2.1. Chính sách Quân sự hóa xã hội Malaya ……………………………….. 86

4.1.2.2. Nhật Bản hóa xã hội Malaya thông qua các chính sách văn hóa, giáo

dục ……………………………………………………………….. 88

4.1.3. Sự chuyển biến ý thức chính trị của người Malay …………………. 90

4.2. Malaya ngay sau Chiến tranh thế giới II: Chính sách của Anh

và tình trạng phân cực của nền chính trị Malaya

………………….......

96

4.2.1. Bối cảnh quốc tế thời hậu chiến …………………... 96

4.2.2. Từ “Liên hiệp Malaya” đến “Liên bang Malaya” và vai trò của Tổ chức

Dân tộc Thống nhất Malay …………………………………………........ 97

4.2.3. Đảng Cộng sản Malaya và “Tình trạng Khẩn cấp” ………………….. 107

4.2.4. Đảng Dân tộc Malay và sự kết thúc lý tưởng “Indonesia Raya” ……....... 110

4.3. Đảng Liên minh đấu tranh giành độc lập dân tộc 115

4.3.1. Quan điểm mới trong chính sách thuộc địa Malaya của chính quyền Anh

từ cuối thập niên 1940 .………………………………................................ 115

4.3.2. Từ những thử nghiệm với ý tưởng “phi cộng đồng” đến sự hình thành

Liên minh UMNO - MCA - MIC ……………………………………….. 119

4.3.2.1. Cuộc thử nghiệm trên quan điểm của người Anh với “Ủy ban Liên lạc

các cộng đồng” …………………………………………………........... 121

4.3.2.2. Cuộc thử nghiệm trên quan điểm của người Malay với “Tổ chức Dân

tộc thống nhất Malay” và “Đảng Malaya Độc lập” …………............... 122

4.3.2.3. Hình thành Liên minh UMNO - MCA - MIC …................................. 123

4.3.3. Đảng Liên minh đàm phán độc lập …………………………………... 130

4.4. Một số nhận xét ……………………………………………………….. 137

4.4.1. Về phhía thực dân Anh ………………………………………………. 137

4.4.2. Về phía người Malay/Malaya…………………………………………. 138

4.4.3. Về sự lựa chọn khác nhau các con đường đấu tranh giành độc lập dân

tộc

140

KẾT

LUẬN ...............................................................................................................

146

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ .................................... 152

TÀI LIỆU THAM

KHẢO .........................................................................................

153

PHỤ

LỤC .................................................................................................................

167

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

API - Angkatan Pemuda Insaf (Youth for Đội quân thanh niên vì công lý

Justice Corps)

BMA - British Military Administration Chính quyền quân sự Anh

CLC - Communities Liaison Committee Ủy ban Liên lạc các cộng đồng

EIC - British East India Company Công ty Đông Ấn Anh

FMS (Federation of Malay States) Liên bang các bang Malay

HĐLPLB Hội đồng Lập pháp Liên bang

IMP - Independence of Malaya Party Đảng Malaya Độc lập

KMM - Kesatuan Malayu Muda (The Union of

Malay Youths)

Liên hiệp Thanh niên Malay

KMS - Kesatuan Melayu Singapura Hiệp hội ngƣời Malay Singapore

KMT - Koumintang Malaya Quốc Dân Đảng (Malaya)

MCA - Malayan Chinese Association) Hiệp hội ngƣời Hoa Malaya

MCP - Malayan Communist Party Đảng Cộng sản Malaya

MIC - Malayan Indian Congress Đại hội Ấn kiều Malaya

MMA - Malayan Military Administration Chính quyền quân sự Malaya

MNP - Malay National Party Đảng Dân tộc Malay

MPAJA - Malayan People‟s Anti-Japanese

Army

Quân đội nhân dân Malaya kháng

Nhật

NAM – National Archives of Malaya Lƣu trữ Quốc gia Malaya

NAS - National Archives of Singapore Lƣu trữ Quốc gia Singapore

PETA - Pembela Tanahair (Defenders of the

Motherland)

Đội quân bảo vệ đất mẹ

PNI - Parti Nasional Indonesia Đảng Dân tộc Indonesia

SITC - Sultan Idris Training College Trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm Sultan

Idris

SS - Straits Settlements Khu định cƣ Eo biển

UMNO - United Malays National

Organization

Tổ chức Dân tộc Thống nhất

Malay

UMS - Un-Federated Malay States Các bang Malay ngoài Liên bang

VOC - Vereenigde Oostindische Compagnie Công ty Đông Ấn Hà Lan

DANH MỤC BẢN ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU

Trang

Bản đồ Liên bang Malaysia ngày nay iii

Bản đồ Malaya thời kì thuộc Anh iv

Eo Malacca trên tuyến đƣờng buôn bán Quốc tế 168

Quá trình bành trƣớng thuộc địa của Anh ở bán đảo Malaya (1786 - 1914) 169

Bảng 2.1: Số liệu Ngƣời Hoa ở Malaya 170

Bảng 2.2: Dân số Malaya thuộc Anh năm 1931 171

Bảng 2.3: Tƣơng quan dân số giữa các cộng đồng tộc ngƣời ở UMS 172

Bảng 2.4: Tỉ lệ ngƣời Malay và ngƣời Hoa, ngƣời Ấn ở UMS (%) 172

Bảng 2.5: Số liệu phản ánh tình hình kinh tế ở các bang UMS 173

Bảng 2.6: Số lƣợng trƣờng Malay ở Liên bang các bang Malay (1901 - 1931) 173

Bảng 2.7: Tổng số học sinh đƣợc tuyển vào các trƣờng Anh ở FMS 174

Bản đồ Liên bang Malaysia ngày nay

Bản đồ Malaya thời kì thuộc Anh

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Quá trình lịch sử của Malaya/Malaysia dƣờng nhƣ chịu ảnh hƣởng bởi yếu

tố địa lý mạnh hơn bất cứ yếu tố nào khác, đặc biệt dƣới thời kì cận đại của lịch

sử thế giới. Với eo Malacca giữ vị trí địa chiến lƣợc trên con đƣờng hàng hải từ

Ấn Độ Dƣơng sang Thái Bình Dƣơng, vƣơng quốc Malacca nhanh chóng đƣợc

hình thành và phát triển thành một trung tâm thƣơng mại xuất nhập khẩu hàng

đầu thế giới với các nguồn thƣơng phẩm đặc biệt hấp dẫn. Tuy nhiên, chính sự

hấp dẫn đó lại là lý do khiến cho bán đảo Malaya đƣợc ví nhƣ một “cánh cửa

quay”

1

của những cuộc “đến” rồi “đi” của nhiều thực dân trong suốt hơn 4 thế

kỉ. Có thể so sánh điều này với một số quốc gia khu vực: Trong khi Inđônêsia chỉ

là thuộc địa của Hà Lan, Đông Dƣơng luôn là thuộc địa của Pháp, Mianma và Ấn

Độ là các thuộc địa của Anh trong nhiều thế kỉ, Philippin trở thành thuộc địa của

Mĩ cho đến khi độc lập hoàn toàn sau 300 năm dƣới ách thống trị của Tây Ban

Nha, thì trƣờng hợp Malaya có thể đƣợc xem nhƣ là một ngoại lệ. Bồ Đào Nha là

thực dân châu Âu đầu tiên bƣớc vào “cánh cửa” này vào năm 1511, cai trị

Malacca trong suốt 130 năm. Hà Lan thay thế Bồ Đào Nha ở Malacca từ năm

1641. Năm 1795, nhân cơ hội đƣợc tạm quyền sở hữu Malacca, Anh đã tiến lên

loại bỏ hoàn toàn quyền lực Hà Lan ra khỏi bán đảo. Hiệp ƣớc Anh - Hà Lan năm

1824 phân “thế giới Malay” ra thành Inđônêsia thuộc Hà Lan và bán đảo Malaya

thuộc Anh. Hơn 130 năm tiếp theo, Malaya tồn tại dƣới cái tên “Malaya thuộc

Anh” - “British Malaya”.

Nhận thức đầu tiên về Malaysia là nhận thức nhƣ thế về lịch sử đầy biến

động của vùng bán đảo ở thời kì cận đại, nhƣng khi bắt tay vào nghiên cứu đất

nƣớc này từ năm 2002, tôi lại lựa chọn những vấn đề hiện đại: cho Luận văn

Thạc sĩ là Chính sách Kinh tế mới và vấn đề hòa hợp dân tộc ở Malaysia (1971-

1990), cho hai đề tài nghiên cứu khoa học (cấp Trƣờng là Vấn đề Hồi giáo trong

chính sách dân tộc của Malaysia (1957-2000) và cấp Đại học Quốc gia vẫn với

vấn đề nghiên cứu trên nhƣng thời gian nghiên cứu đƣợc kéo dài từ 1957 đến

2010). Mặc dù luôn nhận đƣợc sự đánh giá cao đối với các kết quả nghiên cứu

nhƣng bản thân tôi vẫn chƣa thực sự thỏa mãn bởi cảm giác chƣa đi đến tận cùng

1

“revolving door” - từ dùng của Henri P. Frei trong “Malaya in World War II - The Revolving Door of

Colonialism” http://www.tsukuba-g.ac.jp/library/kiyou/2001/3.FREI.pdf

của vấn đề khi giải quyết mối liên hệ giữa xã hội Malaysia hiện đại với xã hội

Malaya truyền thống, di sản từ quá khứ, nhất là quá khứ thuộc địa đã tác động ở

mức độ nào đối với xã hội đƣơng đại Malaysia.2 Đó là lý do ban đầu nhất đƣa tôi

ngƣợc trở lại tiến trình lịch sử của Malaysia, lựa chọn giai đoạn “thuộc Anh” của

Malaysia làm vấn đề nghiên cứu cho Luận án Tiến sĩ của mình.

Mặt khác, trong các nội dung của giai đoạn thuộc địa, tôi lại lựa chọn vấn

đề con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc - một vấn đề bấy lâu nay không dễ

lý giải ngay cả với chính ngƣời Malaya và do đó vấn đề này ở Việt Nam vẫn

chƣa đƣợc nhìn nhận, đánh giá đúng với bản chất của nó mà thƣờng bị gộp vào

với các phong trào có nhiều điểm tƣơng đồng. Hơn thế, “Ý chí luận” một thời

khiến chúng ta máy móc khi cho rằng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể giành độc

lập thực sự khi nó thông qua con đƣờng đấu tranh bạo lực do giai cấp vô sản lãnh

đạo. Sẽ bị cho là không triệt để hoặc tiếp tục phụ thuộc vào chủ nghĩa tƣ bản nếu

phong trào dân tộc diễn ra dƣới sự lãnh đạo của giai cấp tƣ sản và đi theo con

đƣờng tƣ bản chủ nghĩa. Nay, quan điểm của chúng ta đang ngày càng khách

quan hơn. Trên cơ sở đó, phải thừa nhận rằng giải phóng dân tộc gắn với cách

mạng vô sản là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với bối cảnh Việt Nam từ đầu thế

kỉ XX, nhƣng đó không phải là con đƣờng chung cho tất cả các dân tộc thuộc địa.

Con đƣờng đi đến độc lập của Malaya nhƣ đã đƣợc thừa nhận bấy lâu nay là con

đƣờng dân chủ tƣ sản, con đƣờng đấu tranh ôn hòa. Nhƣng đó mới chỉ là xét về

hình thức, xét về mặt bản chất, xã hội Malaya có rất nhiều lý do chi phối quá

trình lựa chọn và tiến hành con đƣờng đấu tranh của mình nhƣng lại chƣa đƣợc

làm sáng tỏ. Bởi vậy, vấn đề này nên đƣợc nghiên cứu, lý giải.

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Trong bối cảnh cả nhân loại tiến bộ đang lấy thập kỉ 2011-2020 là thập kỉ

quốc tế thứ ba loại trừ chủ nghĩa thực dân3

theo tuyên bố của Ủy ban Chính trị

2 Chính Thủ tƣớng Malaysia Mahathir Mohammad trong The Malay Dilemma (tạm dịch là Thế tiến thoái

lương nan của người Malay) đƣợc xuất bản ngay sau cuộc xung đột giữa hai dân tộc Malay - Hoa lớn

nhất trong lịch sử Malaysia tháng 5/1969, ông đã đổ lỗi cho các chính sách thực dân của Anh trong thời kì

thuộc địa là căn nguyên của tình trạng xã hội hiện tại của Malaysia.

3 Khóa họp này thông qua 12 Nghị quyết về Phi thực dân hóa, kêu gọi các nƣớc thành viên Liên Hợp Quốc

tăng cƣờng các biện pháp tập thể, thúc đẩy các bên có liên quan nỗ lực hành động để kết thúc tiến trình phi

thực dân hoá đối với các vùng lãnh thổ còn lại trên thế giới hiện vẫn là thuộc địa hay nằm dƣới quyền ủy trị của

các nƣớc khác.Nhƣ vậy, dù đã qua hơn hai thập kỉ quốc tế nỗ lực thực hiện phi thực dân hóa nhƣng tiến trình

xem ra vẫn rất trì trệ nếu so sánh với khoảng thời gian gần 5 thập kỉ trƣớc (từ năm 1961 đến năm 2009) với

khoảng 750 triệu ngƣời trên 80 vùng lãnh thổ một thời là thuộc địa đã giành đƣợc độc lập, đƣợc hƣởng các

quyền tự do và tự quyết chính đáng. Theo www.vietnamplus.vn/Home/LHQ-thong-qua-12-nghi-quyet-ve-

và Phi thực dân hóa tại phiên họp thứ 65 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm

2010, đứng từ góc độ lịch sử có thể nhận thấy tầm quan trọng của việc đặt lại

những vấn đề liên quan đến chủ nghĩa thực dân, quá trình thực dân hóa, phi thực

dân hóa, hay vấn đề đấu tranh giành độc lập dân tộc - những vấn đề tƣởng nhƣ là

rất cũ nhƣng đến nay vẫn có tính thời sự và ý nghĩa khoa học. Cũng khoảng năm

2007, 2008 Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt

Nam trong chƣơng trình biên soạn bộ Lịch sử Đông Nam Á đã triển khai Đề tài

“Đông Nam Á trong thời kì thuộc địa và phong trào đấu tranh giành độc lập (từ

cuối thế kỉ XVI đến năm 1945)”. Nhìn chung, các tác giả và các nhà thẩm định

đề tài đều có chung một nhận định: thời kỳ thuộc địa của Đông Nam Á là thời kì

hết sức quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử khu vực bởi nó không chỉ gắn

với các mối quan hệ quốc tế trong quá khứ, hiện tại và tƣơng lai mà nó còn gắn

với nhiều vấn đề có tầm ảnh hƣởng lớn, thậm chí tác động và chi phối trực tiếp

đến đặc điểm và khuynh hƣớng phát triển của từng quốc gia trong khu vực.

Hơn nữa, trong thời kì thuộc địa của Đông Nam Á, Malaya lại đƣợc coi là

một trƣờng hợp khá đặc biệt bởi vì ngƣời ta vẫn thƣờng cho rằng, trƣớc Chiến

tranh thế giới II “ngƣời Malay là tộc ngƣời ít quan tâm đến chính trị nhất trong số

các tộc ngƣời ở Đông Nam Á”. [34, tr.1182] Ở Malaya hoàn toàn không có khái

niệm “người Malaya” mà chỉ có “ngƣời Malay”, “ngƣời Hoa” và “ngƣời Ấn Độ”,

ngay bản thân “ngƣời Malay” cũng không thể tồn tại với tƣ cách là một cộng

đồng thống nhất, do đó cũng không tồn tại khái niệm “quốc gia Malaya” mà chỉ

có các tiểu quốc của ngƣời Malay (sau này là các bang Malay), mà nếu có (vào

cuối thập niên 1930) thì nó cũng chỉ đƣợc hiểu là “quốc gia của ngƣời Malay”.

Tình hình đó đƣa đến một cảm quan chung là “chẳng có gì thực sự đáng chú ý

xảy ra ở Malaya cho đến tận năm 1945” hay phong trào dân tộc của ngƣời Malay

trƣớc Chiến tranh thế giới II “mới chỉ ở giai đoạn phôi thai”. [172, tr.xvi] Tuy

nhiên, chỉ chƣa đầy một năm sau khi Chiến tranh thế giới II kết thúc, ngƣời ta lại

thấy “Anh đang phải đối mặt với sức mạnh đoàn kết toàn diện chƣa từng thấy của

ngƣời Malay”. [87, tr.18-19] Lại tiếp tục đƣợc coi là đặc biệt nếu so sánh với một

số thuộc địa khác ở Đông Nam Á. Trong công trình chuyên khảo A Modern

History of Southeast Asia: Decolinization, Nationalism and Separatism, Clive

chu-nghia-thuc-dan/201010/64078.vnplus và www.vietnamplus.vn/Home/Can-ket-thuc-nhanh-qua-trinh￾phi-thuc-dan-hoa/200910/20057.vnplus

Christie chỉ ra rằng, trong số các quốc gia Đông Nam Á lục địa, 3 nƣớc chủ yếu

Thái Lan, Mianma, Việt Nam ngay từ thời kì tiền thuộc địa mặc dù đều chịu ảnh

hƣởng văn hóa và tôn giáo từ bên ngoài nhƣng cả ba đều có ý thức độc lập mãnh

liệt. Mianma và Việt Nam cùng đƣợc thừa hƣởng một quốc gia hùng mạnh và

một bản sắc dân tộc, tôn giáo rõ ràng - những yếu tố cần thiết để tạo nên nền tảng

cho các phong trào dân tộc hiện đại hình thành ở Mianma và Việt Nam vào đầu

thế kỉ XX. [87, tr.7] Tuy nhiên, cả hai nƣớc này - một là thuộc địa của Anh, một

là thuộc địa của Pháp - đều phải tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, thậm chí với

Việt Nam là rất lâu dài và gian khổ mới có thể tiến đến nền độc lập và toàn vẹn

lãnh thổ. Ở vùng Đông Nam Á hải đảo, ý thức độc lập dân tộc của Inđônêsia đã

xuất hiện ngay từ thập niên đầu tiên của thế kỉ XX và luôn là mục tiêu cao nhất

của tất cả các phong trào dù dƣới ảnh hƣởng của trào lƣu vô sản hay dân chủ tƣ

sản. Mặc dù vậy, Inđônêsia vẫn phải trải qua một chặng đƣờng dài gần nửa thế kỉ

mới đạt đƣợc nền độc lập. Với trƣờng hợp Malaya, tính đến thời điểm ngay sau

Chiến tranh thế giới II kết thúc, độc lập dân tộc chƣa bao giờ là mối quan tâm sâu

sắc của ngƣời bản địa Malay dù dƣới sự thống trị của bất kì thực dân nào - Bồ

Đào Nha, Hà Lan hay Anh (ngoại trừ tƣ tƣởng cấp tiến của nhóm trí thức bình

dân Malay từ cuối những năm 1930). Vậy mà, “Quá trình tiến đến độc lập của

Liên bang Malaya chƣa kể đến những tiến bộ kinh tế sau đó, là nhanh nhất so với

bất cứ lãnh thổ phụ thuộc nào ở thời kì hậu chiến” [34, tr.1247]. Thực tế đó khiến

ngƣời ta phải kinh ngạc “Tại sao ngƣời Malay có thể giành đƣợc độc lập nhanh

đến nhƣ vậy” vào năm 1957? [163, tr.133-134] Cũng có nhiều câu hỏi đƣợc đặt

ra với cá nhân tôi: Có phải Malaya đã có đƣợc nền độc lập từ con số 0: không

khát vọng độc lập, không đoàn kết lực lƣợng dân tộc, nghĩa là nền độc lập của

Malaya năm 1957 đơn giản chỉ là sự “trao trả” của thực dân Anh nhƣ bấy lâu nay

nó vẫn đƣợc thừa nhận? Hoặc đã có một “phép màu” chuyển biến chỉ diễn ra

trong vòng 12 năm? Hay Malaya phải trải qua một chặng đƣờng chuyển biến dài

hơn thế nhƣng lại không dễ quan sát hoặc chƣa quan sát đƣợc?... Việc nghiên cứu,

phân tích để làm sáng tỏ những vấn đề vừa nêu bằng hiện thực của lịch sử xã hội

Malaya sẽ làm nên ý nghĩa khoa học của đề tài Luận án.

Cũng quan trọng không kém khi chúng tôi quyết định chọn đề tài “Con

đường đấu tranh giành độc lập dân tộc của Malaya từ cuối thế kỉ XIX đến năm

1957” vì thực tế ở Việt Nam cho đến nay còn rất thiếu vắng những công trình

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!