Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Cơ sở ngữ dụng học - Tập 1
PREMIUM
Số trang
416
Kích thước
8.3 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1220

Cơ sở ngữ dụng học - Tập 1

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

GS.TS ĐỖ HỮU CHÂU

Cơ SỞ NGỮ DỤNG HỌC

TÂPI

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC s ư PHẠM

LỜI NÓI ĐẦU

Ngữ dụng học - một chuyên ngành mới của ngôn ngữ học

quan tâm chủ yếu đến ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp và

tác động qua lại giữa hoạt động giao tiếp và ngôn ngữ - tuy

vào Việt Nam chưa lâu nhưng đã có được một vị trí xứng

đáng trong Việt ngữ học. Các chương trình ngôn ngữ học ở

các trường đại học Việt Nam, kể cả các trường Đại học ngoại

ngữ, các chương trình thạc sĩ và tiến sĩ ngữ văn đều có ngữ

dụng học. Đã có khá nhiều luận văn cử nhân, thạc sĩ và luận

án tiến sĩ Ngữ Văn về ngữ dụng học bảo vệ thành công. Hơn

th ế nữa, một số tư tưởng và khái niệm ngữ dụng học đã được

đưa vào chương trinh tiếng Việt ở các bậc học dưới đại học,

từ Tiểu học đến Trung học phổ thông, góp phần đổi mới

môn học này.

Đã có một số công trình ít ỏi xuất bản ở Việt Nam giới

thiệu một cách đủ tin cậy những căn bản có tính dẫn luận

về ngữ dụng học. Đến lúc cần những công trình viết về ngữ

dụng học có tầm bao quát vân đề rộng hơn, có độ sâu lý

thuyết triệt đ ể hơn ngõ hầu phản ánh được trạng thái phát

triển hiện nay của ngữ dụng học thê giới. Những công trinh

như vậy ít nhiều sẽ có tác dụng thúc đẩy ngữ dụng học Việt

N am phát triển m ạnh hơn, cố gắng tiến kịp với ngữ dụng

học th ế giới.

Được sự khuyến khích của trường Đại học sư phạm Hà Nội,

3

công trình "Cơ SỞ NGỮ DỤNG HỌC" này được viết ra nhằm

đáp ứng mục tiêu trên đây.

Các tác phẩm nước ngoài viết về ngữ dụng học quá lớn về

sốlượng và không dễ tiếp nhận về nội dung. Chắc chắn là, dù

có cố gắng đến đâu cuốn sách này củng không thể thâu tóm

được tất cả những điều thiết yếu về ngữ dụng học được thảo

luận hiện nay trên diễn đàn ngôn ngữ học các nước. Rất

mong được nhận những góp ý của các nhà ngôn ngữ học và

ngữ dụng học Việt Nam.

Hà Nội, ngày 11 tháng 11 năm 2002

Tác giả

GS.TS ĐỖ HŨU CHÂU

4

CHƯƠNG THỨI

NHŨNG GIỚI HẠN CỦA NGÔN NGỮ HỌC

MIÊU TẢ NỬA ĐẦU THÊ KỶ XX

Thuật ngữ ngôn ngữ học miêu tả dùng để chỉ'"ngôn ngữ

học của ngôn ngữ" hiểu theo cách hiểu của F. De Saussure có

đối tượng nghiên cứu là ngôn ngữ độc lập với hoạt động của

nó và với lòi nói, có nhiệm vụ phát hiện ra các đặc điểm của

ngôn ngữ ở một trạng thái được xem là tĩnh tại trong một

thời kỳ nhất định của lịch sử. Thường được xem là các phân

ngành của ngôn ngữ học miêu tả là ngữ âm học, âm vị học,

hình thái học, từ vựng học, ngữ pháp học, ngữ nghĩa học

(miêu tả).

Từ 1970 tới nay, ngữ dụng học được thế giới ngôn ngữ học

quan tâm đặc biệt rộng rãi. Đã có bôn hội nghị quốc tế về ngữ

dụng học, năm 1985 ở Viareggio (Ý), năm 1987 ở Anvers (Bỉ)

năm 1990 ở Barcelona (Tây Ban Nha) và năm 1993 ở Kobe

(Nhật). Hiệp hội Ngữ dụng học Quốc tế (International

Pragmatics Association - viết tắt IPrA) được thành lập năm

1985. Tạp chí Ngữ dụng học (Journal of Pragmatics) một tạp

chí quốc tế về ngữ dụng học ra đời năm 1977, sô" trang in 400

những năm đầu tăng lên đến 1200 năm 1993 và sô' phát

hành tăng từ 4 sô?năm lên đến 12 sô7năm. Ngoài ra không

5

thể kể hết các chuyên khảo, các công trình nghiên cứu, các

luận án về ngữ dụng học lý thuyết và cụ thể ở hầu hết các

nước có đào tạo đại học về ngôn ngữ học trên thê giới.

Geoffrey Leech năm 1983 đã nhận xét rằng 15 năm trước

(trước 1983) ngữ dụng học hầu như không được các nhà ngôn

ngữ học nhắc đến, mà nếu có nhắc đến thì cũng chỉ với tư

cách là một thứ "sọt rác", một thứ Waste-paper basket, như

cách nói của nhà toán học và triết học ngôn ngữ Bar-Hillềl. Ớ

thời đó, người ta cho rằng ngữ dụng học sẽ thu nhận những

cái gì còn thừa ra của ngữ nghĩa học giống hệt như ngữ nghĩa

học trước đó một thập kỷ, được giao nhiệm vụ giải thích tất

cả những cái mà cú pháp tạo sinh không xử lý nổi. Hiện nay

thì ngữ dụng học đã đàng hoàng là một phân ngành của ngôn

ngữ học. Trong lịch sử ngôn ngữ học thế giới, hiếm thấy một

phân ngành nào trong một thời gian ngắn lại phát triển

nhanh đến thế.

Tuy cũng là một phân ngành của ngôn ngữ học nhưng

ngữ dụng học có vị trí khá đặc biệt, không giống như các

chuyên ngành "kinh điển" khác đã nhắc qua ở trên của ngôn

ngữ học lý thuyết cũng như ngôn ngữ học cụ thể. Những hạn

chế của ngôn ngữ học miêu tả nửa đầu th ế kỷ XX (từ đấy

trở đi sẽ gọi tắ t là ngôn ngữ học tiền - dụng học - TDH)

trình bày sau đây sẽ làm rõ cái vị trí đặc biệt này của ngữ

dụng học.

I. HẠN CHÊ TRONG NHŨNG LUẬN ĐIỂM c ủ a FERDINAND

DE SAUSSURE VỂ NGÔN NGỮ

F. De Sausure (1857-1913), nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ, từ

6

1907 đến 1911 trình bày ba chuyên đề về ngôn ngữ học đại

cương tại Trường Đại học Tổng hợp Genève. Sau khi ông mất

Ch. Bally và Sechehaye - hai nhà ngôn ngữ học lớn, đồng

nghiệp của ông đã tập hợp các chuyên đề đó lại, cho xuất bản

thành tác phẩm với nhan đề "Cours de linguistique générale"

(Giáo trình ngôn ngữ học đại cương - GT) ở Lausane và Paris

năm 1916. Có thể không phản ánh hoàn toàn đúng các ý kiến

của F. De Sausure nhưng chính tác phẩm này đã làm cho tư

tưởng của ông phổ biến rộng rãi trên toàn thê giới. Những

luận điểm về ngôn ngữ và ngôn ngữ học, đặc biệt là bôn luận

điểm sau đây trình bày trong GT được xem là nền tảng lý

luận trên đó xây dựng nên ngôn ngữ học TDH, đặc biệt là

ngôn ngữ học cấu trúc luận cho đến những năm 1950. Vối

những luận điểm đó, F. De Saussure được tôn vinh một cách

xứng đáng là "cha đẻ của ngôn ngữ học hiện đại". Bôn luận

điểm đó là:

- Luận điểm về sự đôi lập tuyệt đối hoá giữa ngôn ngữ và

lòi nói.

- Luận điểm về sự đối lập tuyệt đối hoá giữa mặt "nội tại"

và mặt "ngoại tại" của hệ thông ngôn ngữ, gọi tắt là luận

điểm về tính nội tại của hệ thông ngôn ngữ.

- Luận điểm về sự đối lập tuyệt đối hoá giữa thể chất và

cấu trúc của ngôn ngữ.

- Luận điểm về sự đối lập tuyệt đối hoá trạng thái ngôn

ngữ đồng đại vối sự biến đổi của ngôn ngữ trong thời gian

cũng tức là sự đối lập tuyệt đối hoá ngôn ngữ học tĩnh trạng

với ngôn ngữ học lịch sử.

Bôn luận điểm trên không hoàn toàn tách rời nhau luận

7

điểm này dường như là hệ quả của luận điểm kia và ba luận

điểm sau là hệ quả lô gích của luận điểm thứ nhất: tuyệt đôi

hoá đối lập ngôn ngữ và lời nói. Nói theo Paul Ricoeur thì

"Mỗi một phương châm (tức luận điểm - ĐHC) mà chúng ta

vừa kể ra vừa là một cái được vừa là một cái mất"(26). Chúng

ta hãy lần lượt xem xét từng luận điểm.

l ể Luận điểm về sự đối lập tuyệt đối hoá giữa ngôn

ngữ và lời nói

Sự thực thì F. De Saussure nêu ra không phải là hai mà

là ba "thực thể": Ngôn ngữ (langue) hoạt động ngôn ngữ

(langage) và lời nói (parole). Khái niệm hoạt động ngôn ngữ

trong GT không tương đồng với khái niệm này trong cách

hiểu hiện nay. Theo cách hiểu hiện nay thì hoạt động ngôn

ngữ là hoạt động của con người sử dụng ngôn ngữ của mình

nhằm thực hiện các chức năng xã hội của chính ngôn ngữ,

chủ yếu là chức năng giao tiếp và chức năng làm công cụ tứ

duy trừu tượng. Nếu tạm gạt con người ra thì hoạt động ngôn

ngữ là vận động của chính ngôn ngữ khi nó thực hiện các

chức năng xã hội. Với cách hiểu này thì hoạt động ngôn ngữ

trùng với khái niệm hành chức (fonctionnement) của ngôn

ngữ. Trong GT, thì "Hoạt động ngôn ngữ vốn đa dạng và kỳ

lạ; nó đã cưỡi lên nhiều lĩnh vực, vừa vật; lý, vừa sinh lý, vừa

tâm lý, lại còn liên quan lĩnh vực cá nhân, lĩnh vực xã hội

nữa; không thể đem xếp nó vào một phạm trù nào của các sự

kiện nhân loại, vì ngưòi ta không biết làm thế nào để xác

định tính thống nhất của nó" (GT; 31). Khái niệm hoạt động

ngôn ngữ trong GT như chúng ta thấy trong đoạn trích trên,

không lấy gì làm rành mạch cho lắm, chính GT cũng đã viết:

8

"(Trong khi) hoạt động ngôn ngữ có tính chất không thuần

nhất" (GT; 38); "Nó (ngôn ngữ - ĐHC) là một đôi tượng tách

bạch trong cái mớ hỗn tạp những sự kiện của hoạt động ngôn

ngủ" (GT; 38). Có thể thấy GT đã không quan tâm lắm đến

việc phân lập các nhân tô nằm trong "cái mớ hỗn tạp... những

sự kiện không thuần nhất... của hoạt động ngôn ngữ" trừ việc

khảng định rằng trong hoạt động ngôn ngữ có sự phân biệt

giữa ngôn ngủ và lời nói. "Vậy việc nghiên cứu hoạt động

ngôn ngữ gồm có hai bộ phận: bộ phận thứ nhất, bộ phận chủ

yếu, thì đối tượng là ngôn ngữ, vốn có tính chất xã hội tự bản

chất và vốn độc lập với cá nhân.,., bộ phận thứ hai, bộ phận

thứ yếu thì đốĩ tượng là phần cá nhân trong hoạt động ngôn

ngữ, nghĩa là lời nói (chúng tôi gạch dưối - ĐHC) trong đó có

cả quá trình phát âm" (GT: 44). Nêu khái niệm hoạt động

ngôn ngữ ra, F. De Saussure nhằm định vị ngôn ngữ để rồi

gạt ngay nó (hoạt động ngôn ngữ) ra khỏi ngôn ngữ học, ra

khỏi đổi tượng của ngôn ngữ học "không những khoa học

ngôn ngữ không cần đến các yếu tố khác của hoạt động ngôn

ngữ. mà hơn nữa chỉ có thể có được khoa học đó nếu không có

những yếu tô' ấy xen vào" (GT; 38). Rút cục thì, trong ba khái

niệm "Ngôn ngữ", "hoạt động ngôn ngữ", "lời nói" chỉ còn hai:

"Ngôn ngữ" và "lời nói" là quan yếu đối với việc xác định đối

tượng của ngôn ngữ học. Theo GT, ngôn ngữ là "cái gì có tính

chất xã hội", "cái gì có tính chất cốt yếu" (GT; 37), "ngôn ngữ

tồn tại trong tập thể dưới dạng thức một tổng thể những dấu

vết đọng lại trong mỗi bộ óc... đó là cái gì có mặt trong mỗi cá

nhân, trong khi vẫn là cái chung cho mọi người và ở bên

ngoài ý chí của những người bảo quản nó" (GT; 45). Lòi nói là

9

"cái gì có tính chất cá nhân", "cái gì có tính chất thứ yếu và ít

nhiều có tính chất ngẫu nhiên (GT; 45). Phương thức tồn tại

của ngôn ngữ là.

1 + 1 + 1 + 1 —1 (Mẫu tập thể)

còn phương thức tồn tại của lời nói là:

1 + 1' + 1" + 1'" . ..

bởi vì "trong lòi nói không có gì là tập thể cả; những biểu

hiện của nó đều có tính cách cá nhân và nhất thời" (GT; 46).

Thực ra, trong cách xác định lòi nói của GT có những

điều không th ật nhất quán. Tuy nói lòi nói là "cá nhân",

"nhất thòi", "ít nhiều ngẫu nhiên"... nhưng F. De Sausure lại

phát biểu: "Trong đó (lòi nói - ĐHC) nên phân biệt: 1) những

cách kết hợp mà người nói dùng theo quy phạm của ngôn ngữ

để biểu đạt ý nghĩ riêng của mình; 2) cái cơ chế tâm lý - vật

lý cho phép người ấy thể hiện những cách kết hợp ấy ra

ngoài" (GT; 37). Theo lòi phát biểu này thì "những cách kết

hợp", "cơ chế tâm lý - vật lý" trong lời nói sẽ phải là nhũng

cái chung, có tính tập thể, tính xã hội. Ây thế mà ở những

trang sau, GT, ,Lại viết "nó (lòi nói - ĐHC) gồm có: a) những

cách kết hợp của cá nhân, tùy theo ý thích của những

ngưòi nói; b) những hành động phát âm cũng tùy ý như vậy"

(GT; 45), có nghĩa là các "cách kết hợp", "các cơ chế" ấy lại

hoàn toàn do cá nhân quyết định. Xét ra thì GT đã không

phân biệt ít nhất hai phương diện của cái gọi là "lời nói": lời

nói như là sản phẩm và lời nói như là những quy tắc, những

phương thức sử dụng ngôn ngữ để tạo ra các sản phẩm đó.

Khi nói rằng các kết hợp có tính cá nhân, tùy theo ý thích

10

của những ngưòi nói, F. De Saussure nghĩ đến sự kết hợp các

từ ngữ cụ thể thành những kết cấu cụ thể để diễn đạt một

nội dung cụ thể. Khi nói "những hành động phát âm cũng

tùy ý như vậy" F. De Saussure cũng chỉ nghĩ đến những

hành động phát âm phát ra những kết cấu cụ thể nói trên.

Lời nói chỉ trong tư cách là những sản phẩm mối có những

tính chất như GT đã xác định. Còn trong tư cách quy tắc,

phương thức, thì những quy tắc này, những phương thức này

tuy không nằm trong ngôn ngữ hiểu theo cách hiểu của

Saussure nhưng chúng cùng có tính tập thể, tính xã hội,

chung cho mọi người không kém bất cứ yếu tô nào có tính

thông kê của ngôn ngữ. Rồi đây, ở những chương sau, chúng

ta sẽ thấy ngay cả trong những sản phẩm cụ thể, cả về nội

dung, cả về hình thức (tức là những diễn ngôn nói và những

diễn ngôn viết mà chúng ta hàng ngày, hàng giờ, hàng phút,

hàng giây, trừ lúc đi ngủ, nghe được hoặc đọc được) những

yếu tô" có tính xã hội, tập thể, chung cho cả cộng đồng ngôn

ngữ nhiều hơn chúng ta tưởng.

Mặc dầu không thật triệt để trong việc phủ định tính

"tập thể", "xã hội" của "các cách kết hợp", "các cơ chế" của lòi

nói, mặc dầu vẫn thừa nhận một cách đúng đắn rằng "hai đối

tượng này (ngôn ngữ và lòi nói - ĐHC) gắn bó khăng khít với

nhau và giả định lẫn nhau: ngôn ngữ là cần thiết để cho lời

nói có thể hiểu được và gây được tất cả những hiệu quả của

nó; nhưng lời nói lại cần thiết để cho ngôn ngữ được xác lập"

(GT; 45), F. De Saussure lại cực đoan hoá sự đối lập ngôn

ngữ và lời nói về mặt phương pháp luận, ông cho rằng "gộp

ngôn ngữ là lòi nói vào một quan điểm duy nhất thì thật là

11

không tưởng" (GT; 46). Sự đối lập này theo ông là "cái ngã ba

đường mà ngưòi ta gặp ngay khi tìm cách xây dựng lý luận

về hoạt động ngôn ngữ. Cần phải lựa chọn giũa hai con

đường, không thể nào cùng một lúc đi theo cả hai con đường"

(GT; 46). F. De Saussure viết tiếp: "Có thể tạm giữ danh từ

"ngôn ngữ học" cho cả hai ngành học và nói đến một ngành

ngôn ngữ học của lời nói. Nhưng không nên lẫn lộn nó với cái

ngành thực sự là ngôn ngữ học mà đối tượng duy nhất là

ngôn ngữ" (GT; 46). Qua phát biểu trên, có lẽ F. De Saussure

đã "dự cảm thấy" sự ra đời sau này của một thứ ngôn ngữ học

lòi ríbi nhưng lại đã tuyên bô" cắt đứt mọi quan hệ giữa nó vói

cái mà ông gọi là ngôn ngữ học thực sự. Ngôn ngữ học ngôn

ngữ và ngôn ngữ học lòi nói "chỉ có thể đi riêng từng đường

một mà thôi". Sự đốì lập ngôn ngữ và lời nói, kéo theo nó là

sự đối lập ngôn ngữ học ngôn ngữ và ngôn ngữ học lòi nói sẽ

chi phối ngôn ngữ học nửa đầu thế kỷ thứ XX. Trong những

năm này, dòng chủ lưu của ngôn ngữ học miêu tả đồng đại

th ế giới chỉ tập trung vào việc nghiên cứu ngôn ngữ tách rời

khỏi lời nói, tách rời khỏi mọi hoạt động của nó trong đời

sông xã hội bởi theo cách nghĩ của Saussure, ngưòi ta cho

rằng chỉ có như thế ngôn ngữ học mới thực sự là một khoa

học về ngôn ngữ, rằng không cần đến lời nói nhà ngôn ngữ

học vẫn có thể, hơn th ế nữa mới có thể tìm ra bản chất thực

sự của cái gọi là ngôn ngữ.

2. Luận điểm vể tính nội tại của hệ thông ngôn ngữ

Ngôn ngữ tách khỏi lòi nói là đôì tượng của khoa ngôn

ngữ học, theo F. De Saussure là "một hệ thông tín hiệu

phân biệt được tương ứng với những ý niệm phân biệt được"

12

(GT; 32). Công lao to lớn của F. De Saussure là đã thấy được,

chứng minh được rằng ngôn ngữ là một hệ thông và đã bước

đầu chỉ ra cấu trúc của nó, vạch ra cách tiếp cận nó. Nói một

cách thật vắn tắt thì ngôn ngữ là một thiết-chế chung cho tấ t'

cả mọi thành viên trong một cộng đồng ngôn ngữ. Thiết chế

này là một bộ mã gồm những thực thể đặc trưng cho nó,

những thực thể này là những tín hiệu hai mặt (hệ thống tín

hiệu phân biệt được tương ứng với những ý niệm phân biệt

được) giữa những thực thể đó tồn tại những quy tắc tạo mã.

Với những thực thể (những tín hiệu) này các thành viên

trong cộng đồng ngôn ngữ sẽ lựa chọn những cách kết hợp tự

do để tạo nên lòi nói (ít nhiều ngẫu nhiên, cá nhân, không

lặp lại v.v... theo tinh thần của GT). Tầm lớn lao trong phát

kiến của F. De Saussure về tính hệ thông của ngôn ngữ là ở

chỗ về sau quan điểm này sẽ được mở rộng ra đối với mọi đối

tượng của tất cả các ngành khoa học, đặc biệt là các ngành

khoa học xã hội và nhân văn, những ngành học mà đối tượng

của chúng có vẻ như bị chi phối duy nhất bởi ý chí của con

người (con người cá nhân hay con người xã hội).

Trong GT người đọc không tìm thấy một định nghĩa trọn

vẹn về hệ thông. Qua những điều trình bày suốt trong toàn

bộ GT, chúng ta có thể hiểu hệ thông theo F. De Saussure là

một thể thông nhất gồm những yếu tô' giữa chúng có quan hệ

với nhau, giá trị của mỗi yếu tô' là do quan hệ giữa nó với các

yếu tố” khác trong hệ thông quyết định. F. De Saussure cũng

'không nêu ra khái niệm cấu trúc (structure). Khái niệm này

theo Paul Ricoeur chỉ xuất hiện tại đại hội quốc tế lần thứ

nhất các nhà ngôn ngữ học tại La Haye trong công thức:

13

"Cấu trúc của một hệ thống". Đến nay thì hệ thống đã là một

phạm trù của nhận thức luận và phương pháp luận khoa học.

Tuy nhiên không phải mọi người đã nhất trí vê các đặc tính

của nó, những đặc tính mà nếu chấp nhận sẽ đóng vai trò

định hướng cho*sự phát triển của các ngành khoa học.

Như là hệ quả của cặp đốì lập ngôn ngữ / lời nói, F. De

Saussure đưa ra cặp đối lập thứ hai: đối lập giữa những yếu

tô" bên trong và yếu tô" bên ngoài của ngôn ngữ, còn gọi là sự

đối lập giữa mặt nội tại và ngoại tại của ngôn ngữ.

Thuộc về ngoại tại là tất cả những cái bên ngoài ngôn

ngữ nằm trong các hệ thống tạo nên môi trường cho ngôn

ngữ như xã hội, kinh tế, chính trị, văn hoá, địa lý v.v... Thuộc

về nội tại là tất cả những cái nằm trong n'gôn ngữ, "những

cái có liên quan đến hệ thống và các quy tắc... đều là những

sự kiện bên trong" (GT; 51). So sánh với cờ tưống, thuộc về

m ặt nội tại là các quân cờ (quân cò như những giá trị, không

phải như những vật thể vật chất) và các quy tắc di chuyển

quân cò, quy tắc ăn quân, chém tướng v.v... Sự đối lập nội

tại / ngoại tại cũng là một sự đối lập quan yếu, có giá trị

phương pháp luận. Tuy nhiên, quan trọng là kết luận của F.

De Saussure về cặp đối lập này. Theo Saussure, ngôn ngữ là

một hệ thống nội tại, có nghĩa là kín "tự nó là một thể hoàn

chỉnh và một nguyên lý phân loại" (GT; 31), "ngôn ngữ là một

hệ thông chỉ biết có một trật tự của chính bản thân nó mà

thôi" (GT; 51). Cũng như đốì với cặp đốì lập ngôn ngữ / lòi

nói, F. De Saussure cho rằng có thể nói đến một ngôn ngữ

học ngoại tại và ngôn ngữ học nghiên cứu ngôn ngữ từ bên

trong, ngôn ngữ học nội tại để rồi kết luận "tách hai quan

14

điểm cũng là việc, nhất thiết phải làm, và càng tuân thủ việc

đó một cách nghiêm nhặt bao nhiêu thì càng tôt bấy nhiêu"

(GT; 50), "Chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu các hiện tượng

ngôn ngữ bên ngoài có thể đạt nhiều kết quả rất mĩ mãn,

nhưng không thể nói rằng không có nó thì không hiểu được

cơ chế ngôn ngữ bên trong: nói như vậy là sai" (GT; 50).

Với quan niệm như vậy, F. De Saussure đã kết luận GT

bằng câu kết luận nổi tiếng về đối tượng của ngôn ngữ học:t

"Đối tượng duy nhất và chân thực của ngôn ngữ học là ngôn

ngữ, xét trong bản thân nó và vì bản thân nó" (GT; 393), và

L. Hjelmslev sẽ định nghĩa hệ thông theo tinh thần nội tại

luận là: một thực thể độc lập với những quan hệ phụ thuộc

lẫn nhau nội tại. Đáng chú ý là qua GT, F. De Saussure rất

nhiều chỗ nhắc đi nhắc lại bản chất xã hội của ngôn ngữ, ông

nói: "Ngôn ngữ không lúc nào tồn tại ở bên ngoài thực tại xã

hội, vì nó là một hiện tượng tín hiệu học, bản chất xã hội của

nó là một trong những đặc tính nội tại của nó" (GT; 139)

đồng thời, nói đến "bản chất xã hội của ngôn ngữ", tất yếu F.

De Saussure phải nói tới chức năng giao tiếp của nó: "Đốĩ với

chúng tôi, ngôn ngữ là hoạt động ngôn ngữ mầ trừ lòi nói. Nó

là tập hợp những thói quen ngôn ngữ cho phép một cá nhân

hiểu được và làm cho người khác hiểu được mình" (chúng tôi

nhấn mạnh - ĐHC) (GT; 138). Cũng trong GT, chúng ta đọc

thấy câu này: "Phát hiện một sự thật thường dễ hơn là thấy

cho đúng tầm quan trọng của nó" (GT; 123). Phát hiện ra bản

chất xã hội của ngôn ngữ, hơn thế nữa còn khẳng định bản

chất xã hội là một đặc tính nội tại (chúng tôi nhấn mạnh -

ĐHC) của ngôn ngữ, nhắc đến chức năng của ngôn ngữ là

15

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!