Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

chuyên đề tổng kết các ưu đãi đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao của lê
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, việc thu hút đầu tư đang trở thành mối quan tâm hàng đầu
của nhiều nước nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế mỗi quốc gia trong công
cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực
đầu tư trước hết thể hiện ở luật pháp. Đối với mọi quốc gia, Luật Đầu tư là
một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là cái mà tất cả nhà đầu tư quan
tâm. Nhà nước với vai trò thiết kế và quản lý mọi mặt đời sống xã hội đã sử
dụng pháp luật – một công cụ rất hữu hiệu để thống nhất và định hướng hoạt
động đầu tư. Hoàn thiện pháp luật, tạo môi trường đầu tư có sức hút mạnh
mẽ là mối quan tâm của mọi quốc gia.
Tuy nhiên, pháp luật dù hoàn thiện như thế nào đi nữa mà không được
thực hiện có hiệu quả thì không thể đem lại những gì tốt đẹp mà chủ thể ban
hành mong muốn, không đem lại lợi ích cho xã hội, thậm chí là ngược lại.
Thực hiện pháp luật là sự tiếp nối xây dựng pháp luật, là quá trình hiện thực
hoá pháp luật, làm bộc lộ và phát huy những giá trị tiềm năng của pháp luật
trong thực tế, là thực tiễn sinh động kiểm nghiệm chất lượng xây dựng pháp
luật. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, Nhà nước luôn quan tâm
đến vấn đề thực hiện pháp luật trong đó có thực hiện pháp luật khuyến khích
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, việc thực hiện pháp luật khuyến
khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã đạt được những kết quả
đáng kể. Các biện pháp khuyến khích đầu tư về thuế đặc biệt là theo ngành
và lĩnh vực đã bước đầu phát huy tốt hiệu quả định hướng đầu tư. Các chính
sách ưu đãi hướng về xuất khẩu nhìn chung đã phát huy tác dụng tốt, góp
phần quan trọng trong việc nâng tổng kim ngạch xuất khẩu, các dự án sản
xuất kinh doanh, kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh chóng qua các thời kỳ.
Vấn đề bảo vệ môi trường cũng được các doanh nghiệp quan tâm; thủ tục
1
đầu tư đã và đang tiếp tục được thực hiện theo hướng chuyển dần sang cơ
chế một cửa, mở rộng phân cấp, uỷ quyền cấp phép đầu tư. Nhờ đó, các thủ
tục hành chính, nhất là các thủ tục triển khai sau giấy phép đã được đơn giản
hơn, nhiều vướng mắc của doanh nghiệp đã được phát hiện và xử lý kịp thời,
môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện từng bước. Nhìn chung, các
cơ quan quản lý đầu tư đã thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với
đầu tư. Trong chỉ đạo và điều hành đã kịp thời ban hành các chính sách thích
hợp theo quy định chung, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tháo gỡ
các khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.
So với các năm đầu tiên thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các
cơ quan quản lý, cấp phép địa phương đến nay đã có những bước tiến đáng
kể trong hoàn thiện và nâng cao năng lực quản lý nhà nước của mình. Công
tác quản lý đầu tư đã dần đi vào nề nếp.
Tuy nhiên, thực trạng thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài cũng cho thấy những tồn tại cần được khắc phục như: Các
văn bản pháp luật về khuyến khích đầu tư quá phức tạp, kém chất lượng, gây
khó khăn trong việc thực hiện cho cả cơ quan nhà nước và các nhà đầu tư;
một số chính sách thuế, tài chính và ưu đãi đầu tư không phát huy tác dụng
trên thực tế; cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý; pháp luật đầu tư quy định nhiều
biện pháp ưu đãi đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn
nhưng trên thực tế, việc thu hút đầu tư vào các lĩnh vực này còn nhiều hạn
chế, các biện pháp khuyến khích đầu tư chưa thực sự phát huy vai trò định
hướng thu hút đầu tư; trong một số trường hợp, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền can thiệp sâu vào quyền tự do quyết định đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài; việc bảo đảm quyền và lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài được quy
định trong giấy phép đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật được thực
hiện chưa nhất quán.
Vì vậy, để thực hiện chủ trương mà Đại hội toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã đề ra là: “Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xoá bỏ
2
các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư để khai thác
và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước
và thu hút vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài”. 1
, việc đánh giá
thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện một cách có hiệu quả pháp
luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam hiện nay là hết sức
cần thiết và mang tính thời sự. Đây là lý do thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu đề
tài: Thực hiện pháp luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Pháp luật và thực thi pháp luật về khuyến khích đầu tư là một vấn đề
khá mới mẻ đối với Việt Nam, chỉ với hơn 20 năm đi vào cuộc sống, còn
đang ở trong giai đoạn thử nghiệm để hoàn chỉnh dần. Kinh nghiệm lập pháp
cũng như thực thi pháp luật trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế nên đang
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, đã có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề pháp luật và thực thi pháp luật về
khuyến khích đầu tư như :
Nghiên cứu thực nghiệm ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh
nghiệp cho các doanh nghiệp tư nhân hiện nay của Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004. Kết quả chủ yếu của công trình này là
những đánh giá về việc thực hiện các ưu đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh
nghiệp trong các doanh nghiệp tư nhân. Dựa trên kết quả nghiên cứu của
công trình, chúng ta có được những luận cứ khoa học cho việc thực hiện ưu
đãi đầu tư về thuế thu nhập doanh nghiệp – một trong các nội dung của biện
pháp đầu tư về thuế. Như vậy, công trình này không những chưa đưa ra
những đánh giá toàn diện về việc thực hiện biện pháp ưu đãi đàu tư về thuế
mà còn chưa nghiên cứu việc thực hiện các biện pháp ưu đãi đầu tư khác.
1
. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, tr. 238.
3
Chuyên đề tổng kết các ưu đãi đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao của Lê Tuyển Cử và Nguyễn Thị Thanh Hà năm
2004. Mặc dù, công trình đã nghiên cứu khá toàn diện về việc thực hiện các
ưu đãi đầu tư nhưng lại chỉ giới hạn trong các khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao trong khi đó pháp luật ưu đãi đầu tư không chỉ được
thực hiện trong các các khu vực này mà được thực hiện ở không gian rất
rộng.
Tổng kết 17 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài của Bộ kế
hoạch và đầu tư năm 2005. Có thể thấy, đây là công trình nghiên cứu khá
công phu, tương đối sâu sắc về thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Tuy nhiên, cơ sở pháp luật của những đánh giá
trong công trình này lại là các văn bản pháp luật đã được ban hành ở thời
điểm trước đây( Trước khi có Luật Đầu tư năm 2005). Những kiến giải của
công trình mới chỉ nhằm phục vụ cho việc ban hành Luật đầu tư năm 2005.
Luật đầu tư năm 2005 ra đời đã khắc phục hàng loạt những bất cập của các
văn bản trước đó. Vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu,đánh giá về mức độ
hiện thực hoá các quy định của pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài hiện hành và hiệu quả của nó trong đời sống thực tiễn, làm cơ sở cho
việc đưa ra các giải pháp tiếp tục thực hiện.
Tổng kết 9 năm thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước của
Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2005. Công trình đã đi sâu nghiên cứu và đánh
giá những thành tựu và yếu kém trong thực hiện pháp luật đầu tư. Kết quả
nghiên cứu của công trình đã đưa ra cái nhìn tổng quan về các yếu tố tạo nên
hiệu quả thực hiện pháp luật nhưng lại chỉ đánh giá hiệu quả thực hiện pháp
luật khuyến khích đầu tư ở trong nước và trên cơ sở Luật Khuyến khích đầu
tư trong nước.
Báo cáo của Chuyên gia Quốc tế và Chuyên gia Việt Nam về hướng
dẫn thi hành Luật Đầu tư tháng 07 năm 2006. Công trình đã tổng hợp các
4
ý kiến của các chuyên gia trong nước và quốc tế về hướng dẫn thi hành Luật
Đầu tư. Tuy nhiên, những ý kiến này chỉ dừng lại ở việc nêu ra những nội
dung của Luật đầu tư cần chủ yếu cho việc ban hành Nghị định hướng dẫn
thi hành Luật đầu tư mà thôi. Công trình chưa quan tâm sâu sắc đến việc đưa
ra các giải pháp để hiện thực hoá các quy định đó.
Đánh giá 6 tháng thi hành Luật đầu tư của Viện Quản lý kinh tế
Trung ương năm 2007. Công trình này đã đánh giá khá toàn diện về thực
hiện luật đầu tư nhưng chỉ mới đánh giá ở một giai đoạn rất ngắn(6 tháng) và
ở thời điểm mà Luật đầu tư mới vừa có hiệu lực, bắt đầu đưa vào thực hiện –
một giai đoạn có nhiều khó khăn khách quan, ảnh hưởng không nhỏ tới thực
hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Một năm thi hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư: Mặt được,
chưa được và việc cần làm, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 15/2007; Thực
hiện Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp: Nhìn từ góc độ cải cách thể chế,
Tạp chí Quản lý kinh tế, số 19/2008 của Thạc sỹ. Nguyễn Đình Cung. Tác
giả đã đánh giá những mặt được, chưa được của công tác thực hiện pháp luật
đầu tư nói chung, từ đó đánh giá những bất cập nhìn từ góc độ thể chế. Tuy
nhiên, công trình này mới chỉ tập trung đánh giá những hạn chế nhìn từ góc
độ thể chế chưa đi vào các yếu tố bộ máy, trình đọ dân trí...Mặt khác, Công
trình cũng chỉ mới đánh giá việc thực hiện pháp luật trong một thời gian rất
ngắn và chưa đi sâu vào đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi đó, thực hiện
pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải được đánh giá
một cách sâu sắc và toàn diện.
Luật đầu tư năm 2005 - Một số vấn đề bất cập của Thạc sỹ. Đoàn
Trung Kiên, Tạp chí Luật học số 5/2008. Công trình đã chỉ ra những bất cập
của Luật đầu tư năm 2005, một trong những khó khăn của việc thực hiện
pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Tuy nhiên,
5
hiệu quả thực hiện pháp luật không chỉ phụ thuộc vào thực trạng pháp luật
mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.
Như vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên đã tiếp cận vấn đề thực
hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở những phạm vi và
mức độ khác nhau, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu vào
nghiên cứu một cách có hệ thống, đồng bộ, gắn với việc khảo sát thực tiễn,
nhất là sau khi có Luật đầu tư năm 2005.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài:
Mục tiêu nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đề xuất những giải pháp
nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc mà thực tiễn đặt ra, đảm bảo thực
hiện một cách có hiệu quả pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật
khuyến khích đầu tư trùc tiÕp níc ngoµi .
- Phân tích, đánh giá khách quan, khoa học về thực hiện pháp luật
khuyến khích đầu tư trùc tiÕp níc ngoµi ở nước ta thời gian qua; khái quát
thành tựu, kết quả đạt được cũng như chỉ ra những yếu kém, tồn tại và
nguyên nhân.
-Khái quát những quan điểm, định hướng cơ bản của Đảng, Nhà nước
về thực thi pháp luật khuyến khích đầu tư trùc tiÕp níc ngoµi; đồng thời đề
xuất những giải pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm thùc thi mét c¸ch cã hiÖu
qu¶ ph¸p luËt khuyÕn khÝch ®Çu t trùc tiÕp níc ngoµi trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ë ViÖt Nam.
6
4. Nội dung của đề tài
Đề tài nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc thực hiện pháp luật
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, gồm các nội
dung sau:
1. Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật khuyến khích
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2. Thực trạng thực hiện pháp luật khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam
3. Định hướng và những giải pháp đảm bảo thực hiện hiệu quả
pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài vận dụng lý luận và phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước để phân tích, đánh giá và giải quyết các vấn đề.
- Ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp,
phương pháp chuyên gia, tổng kết thực tiễn và một số sơ đồ minh hoạ các số
liệu cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài :
- Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung luận cứ khoa học cho
chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam trong những năm tới; trực
tiếp phục vụ việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật đầu tư.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc thực hiện pháp luật
về đầu tư trước mắt cũng như trong tương lai.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học
tập liên quan tới xây dựng chính sách và pháp luật kinh tế.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT KHUYẾN
KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KINH NGHIỆM
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở MỘT SỐ NƯỚC
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1.1.1.Khái niệm pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Với những cách tiếp cận khác nhau, có nhiều định nghĩa khác nhau
về đầu tư. Tuy nhiên, định nghĩa về đầu tư được thừa nhận về mặt pháp lý ở
Việt nam là định nghĩa trong Điều 3 của Luật đầu tư năm 2005. Theo luật
này, “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc
vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định
của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Có nhiều cách phân loại đầu tư nhưng dựa vào tính chất đầu tư, người
ta có thể chia đầu tư thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Trong đó, đầu
tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản
lý hoạt động đầu tư. Với hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư thường kiểm
soát hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp có vốn đầu tư của mình. Đầu tư trực tiếp mang theo sự đồng bộ về
nguồn lực của đối tác kinh doanh( vốn, kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, khả
năng cung ứng vốn và năng lực maketing) nên tạo ra nhiều nghành nghề mới
và thúc đẩy sự phát triển của tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Nếu dựa vào nguồn gốc đầu tư, chúng ta có thể chia đầu tư thành hai
loại : Đầu tư trong nước và đầu tư ngoài nước. Theo định nghiã tại Điều 3
Luật đầu tư 2005 của Việt Nam : “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến
hành hoạt động đầu tư ”.
8
Như vậy, có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI = Foreign Direct
Investment) là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư và tham gia quản
lý hoạt động đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam dưới các hình thức: 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; liên
doanh; hợp đồng BCC, BTO và BT ; đầu tư phát triển kinh doanh; mua cổ
phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; sáp nhập và mua
lại doanh nghiệp…
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề tăng nhanh vốn đầu tư và tăng liên tục
tốc độ tăng trưởng kinh tế là một vấn đề sống còn của dân tộc. Khuyến khích
đầu tư trong nước đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài như hai dòng
chảy vào một con kênh, tạo nguồn lực cho đất nước trong hiện tại và những
năm sắp tới. Về lâu dài thì nguồn lực bên trong sẽ tăng dần và trở thành chủ
đạo. Nhưng trước mắt, trong khi nguồn lực bên trong còn có hạn, hơn nữa lại
chưa tạo ra được môi trường đầu tư để huy động tối đa nguồn lực đó, thì
nguồn lực bên ngoài lại chiếm tỷ lệ lớn và đáp ứng được những dự án đầu tư
quan trọng nhất. Vì vậy, Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới
đều xây dựng một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài hấp dẫn theo
xu hướng xoá bỏ dần những rào cản bất lợi trong việc dịch chuyển vốn đầu
tư.
Khuyến khích đầu tư là hệ thống các chính sách, biện pháp ưu đãi đầu
tư của Nhà nước nhằm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài
nước hoặc định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định.
Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển, các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực khuyến khích đầu tư dưới nhiều hình thức phong phú, đa
dạng với nội dung ngày càng trở nên phức tạp. Để đảm bảo cho hoạt động
đầu tư và hệ thống các biện pháp, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển
theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo quyền lợi và sự bình đẳng trong
9
quá trình đầu tư, các biện pháp khuyến khích đầu tư không thể tồn tại dưới
dạng các quan hệ xã hội bình thường mà cần phải có sự điều chỉnh của Pháp
luật. Dưới sự tác động của các quy phạm pháp luật, Nhà nước quản lý và
hướng các hoạt động đầu tư và ưu đãi đầu tư theo định hướng của mình. Do
đó, pháp luật khuyến khích đầu tư trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài
ra đời.
Pháp luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài là hệ thống
những quy phạm pháp luật, tạo những điều kiện thuận lợi nhất mà mỗi
quốc gia có thể dành cho nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu hút vốn đầu tư
và trên cơ sở đó tạo ra lợi thế so sánh với các nước khác.
Chính phủ các nước đã sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư
trong các quy định pháp luật. Ở Việt Nam, để thúc đẩy đầu tư trong phạm vi
toàn bộ nền kinh tế và hướng đầu tư vào một số địa bàn, lĩnh vực ưu tiên
phát triển, các biện pháp khuyến khích đầu tư trong đó có đầu tư trực tiếp
nước ngoài được quy định ở nhiều văn bản pháp lý từ Hiến pháp đến các đạo
luật và các văn bản dưới luật, thể hiện tập trung nhất là trong Luật Đầu tư,
Luật đất đai, Luật xây dựng, các Luật Thuế và các văn bản hướng dẫn thi
hành.
Nhìn chung các biện pháp khuyÕn khÝch đầu tư được quy định trong
ph¸p luËt bao gồm các c¸c biÖn ph¸p u ®·i ®Çu t vµ các biÖn ph¸p hç trî ®Çu
t. Trong đó, các biện pháp ưu đãi đầu tư gồm ưu đãi về thuế và ưu đãi khác
về tài chính. Mục tiêu chính của các ưu đãi thuế là nhằm giảm bớt gánh nặng
về thuế thực sự và nâng cao tỷ lệ thu hồi vốn đối với đầu tư mà đáng kể là
quy định miễn một phần hoặc toàn bộ Thuế thu nhập doanh nghiệp thông
thường. Các ưu đãi về thuế khác là việc miễn thuế nhập khẩu, hoàn thuế
nhập khẩu, khấu hao nhanh, các khoản khấu trừ cụ thể, giảm thuế đối với
đầu tư và tái đầu tư và các khoản khấu trừ đối với đóng góp an ninh xã hội.
Các ưu đãi khác về tài chính bao gồm việc cung cấp vốn cho các công ty để
10
tài trợ cho các dự án đầu tư mới hoặc thanh toán vốn và các chi phí hoạt
động, chuyển lỗ trong kinh doanh, khấu hao tài sản, ưu đãi về sử dụng đất…
Hộ trợ đầu tư là những biện pháp tích cực chủ động về phía nhà nước nhằm
giúp đỡ các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Các biện pháp này thường được
áp dụng trong trường hợp xảy ra những khó khăn, những bất lợi, những rủi
ro đối với nhà đầu tư trong những dự án, những lĩnh vực, những địa bàn mà
Chính phủ khuyến khích đầu tư. Các biện pháp này bao gồm cơ sở hạ tầng
được bao cấp, các dịch vụ được bao cấp, hỗ trợ về thủ tục hành chính, hỗ trợ
chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đào tạo, hỗ trợ thông tin…
Pháp luật về khuyến khích đầu tư của các nước OECD nói chung
không phân biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước trong việc thiết
kế và thực hiện các ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, các nước đang phát triển
thường phân biệt có lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, một phần là do
định hướng thực tiễn đầu tư, muốn thu hút đầu tư nước ngoài được nhiều
hơn do sự thiếu vốn để công nghiệp hóa và một phần là do chi phí tài chính
phải trả nếu giành cho tất cả các nhà đầu tư.
Trong khi pháp luật về ưu đãi đầu tư có thể hợp lý đối với một nước
cụ thể thì cuộc cạnh tranh thu hút FDI đã dẫn đến pháp luật về ưu đãi đầu tư
nói chung là tương tự giữa các nước. Kết quả là một số lợi ích của đầu tư
đang được chuyển từ lợi ích của nhà nước chủ nhà sang các công ty đa quốc
gia dưới hình thức các nhân nhượng về thuế và các khoản bao cấp, và điều
này làm giảm nguồn lợi đối với nhà nước chủ nhà.
1.1.2. Khái niệm chung về thực hiện pháp luật
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng song sinh. Nhà nước ban
hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị, đồng thời duy trì trật tự xã hội. Pháp luật với các đặc trưng của
nó, trở thành công cụ hữu hiệu nhất để nhà nước quản lý xã hội. Tuy nhiên,
11
pháp luật chỉ thực sự có giá trị khi nó được thực hiện trong đời sống thực
tiễn.
Vấn đề thực hiện pháp luật luôn được các nhà nước quan tâm cả trên
phương diện nghiên cứu lý luận và phương diện tổ chức thực tiễn. Trên
phương diện lý luận, thực hiện pháp luật là nội dung trọng tâm của khoa học
pháp lý. Vấn đề là ở chỗ những quy phạm pháp luật được nhà nước ban hành
để điều chỉnh các quan hệ xã hội, xác lập trật tự xã hội, cho dù có sức mạnh
cưỡng chế, thậm chí bằng cả những chế tài tàn khốc cũng không thể tự mình
đi vào cuộc sống. Pháp luật được ban hành nếu chỉ “đọng” lại trên các văn
bản thì chỉ là pháp luật ở trạng thái “tĩnh”, vấn đề quan trọng là pháp luật
phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; trở thành phương thức quản
lý xã hội, quản lý nhà nước,cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời
sống cộng đồng. Thực hiện pháp luật là một hiện tượng mang tính lịch sử,
thể hiện ra là một quá trình hết sức phức tạp nhằm thực hiện hóa các giá trị
của pháp luật. Và cũng vì thế, trước đây cũng như hiện nay trong khoa học
pháp lý khái niệm thực hiện pháp luật vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm, nhận
thức và cách thức giải thích khác nhau, đáng chú ý là các quan niệm sau:
- Có quan điểm cho rằng “ Thực hiện pháp luật là hành vi hành động
hoặc không hành động của con người phù hợp với những quy định của pháp
luật. Nói khác đi, tất cả những hoạt động nào của con người, của các tổ
chức mà thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì đều được coi là
biểu hiện của việc thực hiện thực tế các quy phạm pháp luật”2
- Quan điểm thứ hai cho rằng “ Thực hiện pháp luật là hiện tượng,
quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt
động thực tế của các chủ thể pháp luật”3
.
2 Trường Đại học Luật Hà Nội (2004),Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội
3 Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật(2007), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, Tr.396
12
- Lại có quan điểm coi “ Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt
động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực
trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể
pháp luật”4
.
Các quan niệm trên đều tương đối đồng nhất về nội dung, đó là:
Khẳng định thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm là cho các
quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Sự khác nhau
trong các quan niệm là không cơ bản, chỉ ở chỗ coi thực hiện pháp luật là
một quá trình hay là một hiện tượng xã hội, song đều hướng đến mục đích
chung là hành vi hợp pháp của đối tượng thực hiện pháp luật.
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc tăng cường pháp chế, coi
trọng việc thực hiện pháp luật, củng cố trật tự pháp luật và kỷ cương nhà
nước. Những quan điểm tư tưởng trên về thực hiện pháp luật đã được Hiến
pháp- luật cơ bản của Nhà nước nghi nhận như một nguyên tắc cơ bản trong
tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội. Điều 12 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi,
bổ sung một số điều năm 2001) quy định: “ Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật. Mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”
Từ việc nghiên cứu những quan điểm trên có thể rút ra khái niệm về
thực hiện pháp luật như sau: Thực hiện pháp luật là toàn bộ quá trình được
diễn ra theo một cơ chế chặt chẽ, trong đó các cá nhân, tổ chức thực hiện
các hành vi phù hợp với ý chí của nhà nước được thể hiện trong pháp luật
về từng lĩnh vực cụ thể mà cá nhân, tổ chức đó chịu tác động điều chỉnh.
4 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật(2004), Giáo trình lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Tr 162
13
Dưới góc độ pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp. Hành
vi đó không trái, không vượt quá phạm vi quy định của pháp luật, phù hợp
với quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho nhà nước, cho cá nhân.
Tuy nhiên, đó chỉ là cách nhìn nhận chung, chưa cụ thể. Pháp luật gồm rất
nhiều các quy phạm khác nhau về nội dung, về cách thức, phương pháp điều
chỉnh. Vì thế, với mỗi loại quy phạm đòi hỏi phải có cách thức thực hiện phù
hợp; có thể đó là các xử sự chủ động (hành động) nhằm đạt được mục đích
luật định, như sử dụng quyền hay làm nghĩa vụ pháp lý; có thể là cách xử sự
thụ động (không hành động), là kiềm chế không làm những điều mà pháp
luật cấm.
Vì vậy, hành vi hợp pháp rất đa dạng, được thực hiện tùy thuộc vào ý
chí mỗi cá nhân, vào ý chí của nhà nước. Hành vi hợp pháp có thể được thực
hiện trên cơ sở nhận thức sâu sắc của chủ thể về sự cần thiết phải xử sự theo
pháp luật, và do vậy nó là hành vi tự giác, tích cực. Cũng có thể hành vi hợp
pháp được thực hiện thụ động, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau,
trong khi chủ thể thực hiện pháp luật chưa hoặc không nhận thức được đầy
đủ tại sao phải làm như vậy. Cũng có thể có những hành vi hợp pháp được
thực hiện do kết quả của việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước
hoặc do sợ bị trừng phạt.
Những trường hợp trên đều cho thấy thực hiện pháp luật là quá trình
hiện thực hóa pháp luật; quá trình này diễn ra với nhiều hình thức khác nhau,
tùy thuộc vào tính chất các quy phạm pháp luật, vào yêu cầu của các chủ thể,
và vào vị trí, vai trò của các chủ thể đó trong xã hội, đối với Nhà nước. Căn
cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý xác
định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
Thứ nhất, hình thức tuân thủ pháp luật.
Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật thụ động, trong đó
các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp
14