Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Chuẩn đoán bệnh truyền nhiễm
MIỄN PHÍ
Số trang
21
Kích thước
479.5 KB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1222

Chuẩn đoán bệnh truyền nhiễm

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

Chương 3

Chuẩn đoán bệnh truyền nhiễm

I. Khái quát về chẩn đoán bệnh truyền nhiễm

Chẩn đoán bệnh truyền nhiễm là việc xác định nguyên nhân (và tên gọi) của hiện

tượng bệnh lý đang có thông qua các thủ tục mô tả những hiện tượng bệnh lý đang gặp ở

cá thể (bệnh) và ở quần thể (dịch) hoặc/và mô tả mầm bệnh đã được phân lập để so sánh

những thuộc tính thu được đó với những thuộc tính của các bệnh/dịch hoặc mầm bệnh đã

được mô tả, phân loại và định danh (đặt tên) và quy thuộc hiện tượng bệnh lý đang có vào

một nhóm hiện tượng bệnh lý đã được phân loại và đặt tên. Mô tả có thể dựa vào triệu

chứng lâm sàng (chẩn đoán lâm sàng), bệnh tích (chẩn đoán giải phẫu bệnh lý), đặc điểm

dịch học (chẩn đoán dịch tễ học) và các đặc điểm vi sinh vật học, huyết học, huyết thanh

học, sinh học phân tử (chẩn đoán xét nghiệm). Như vậy, ta gọi được tên bệnh đang có là

nhờ vào việc xác định tính tương đồng của các biểu hiện bệnh và/hoặc căn bệnh với các

biểu hiện bệnh và/hoặc căn bệnh của những bệnh đã đặt tên từ trước. Thủ tục chẩn đoán

(giống như thủ tục nhận dạng) vì vậy được gọi là thủ tục đồng định (identification). Trên

thực tế, quá trình quy thuộc được thực hiện qua hàng loạt bước loại suy, ví dụ "vi khuẩn

phân lập được nhuộm màu Gram âm vậy không thể là Bacillus hay một vi khuẩn Gram

dương nào khác". Do đó, chẩn đoán còn là quá trình giám biệt (differentiation), còn các

tính trạng quan trọng giúp chẩn đoán được gọi là những đặc điểm giám biệt. Tuy nhiên,

nhiều khi thủ tục chẩn đoán chỉ là việc xác nhận sự hiện diện của một mầm bệnh (chẩn

đoán bệnh nguyên học xác nhận kết quả chẩn đoán khác).

Đồng định, như vậy, không chỉ là "xác định", mà là xác định có định hướng trên

cơ sở những kiến thức đã biết trước của nhà chuyên môn về các loại bệnh và/hoặc mầm

bệnh. Hơn nữa đồng định có thể thất bại. Sau mọi nỗ lực đồng định, nếu đồng định vẫn

thất bại, nhà chuyên môn có thể đưa ra giả thuyết về loại bệnh mới, chưa được biết.

Trong điều tra dịch tễ học người ta nghiên cứu tốc độ truyền lây, tỷ lệ mắc bệnh

mới, tỷ lệ lưu hành bệnh, tỷ lệ tử vong, tuổi và giống phát bệnh chủ yếu, vùng phát sinh,

yếu tố thời tiết, sinh sản dị thường hoặc đẻ trứng dị thường, giảm sản lượng sữa hoặc tỷ

lệ đẻ trứng, thay đổi thức ăn, nhập động vật mới, sự truyền lây bệnh sang loại động vật

khác, lịch sử tiêm phòng vacxin,... Đặc biệt, điều tra dịch học là hết sức quan trọng trong

quá trình nhận biết bệnh truyền nhiễm phát sinh ở động vật được chăn nuôi tập trung

dưới cùng điều kiện môi trường.

Tuy ở nhiều bệnh cảm nhiễm những đặc điểm dịch học, biểu hiện bệnh lý và triệu

chứng lâm sàng có thể đặc trưng, và điều này giúp ích cho việc suy định mầm bệnh liên

quan nhưng cần chú ý rằng cũng có thể chúng tạo định kiến ở người xét nghiệm và làm

lệch lạc kết quả do lựa chọn sai phương pháp xét nghiệm, ví dụ, dùng phương pháp vi

khuẩn học để xét nghiệm động vật bệnh do ngộ độc hóa chất (nông dược,...).

Chẩn đoán bệnh nguyên học là những thủ tục vi sinh vật học, huyết thanh học và

sinh học phân tử,... nhằm xác định sự hiện diện của một loại mầm bệnh nào đó trong cơ

thể bị bệnh. Đương nhiên, quy thuộc yếu tố mầm bệnh nghi ngờ (với nhóm mầm bệnh đã

biết) ở cấp độ càng chi tiết càng tốt: loài gì, nhóm huyết thanh học nào, nhóm di truyền

học phân tử nào,... là những câu hỏi thường đặt ra và tìm cách trả lời.

Để thực hiện nhanh chóng và chính xác các xét nghiệm chẩn đoán bệnh nguyên

học cần khảo cứu triệu chứng lâm sàng, bệnh tích mổ khám và đặc điểm dịch tễ để suy

định những bệnh nguyên liên quan có thể gây nên bệnh dịch. Dựa vào triệu chứng lâm

sàng và bệnh tích, vị trí bệnh biến chủ yếu,... mà các bệnh truyền nhiễm động vật chia

thành bệnh cơ quan hô hấp, bệnh hệ thần kinh trung ương, bệnh cơ quan tiêu hóa, bệnh

sinh khối u (ung thư), bệnh da, bệnh cơ quan sinh dục tiết niệu và các chứng bệnh trở

ngại sinh sản (vô sinh, đẻ non,...). Chủng loại các mầm bệnh cũng có thể là vi khuẩn,

virut, nấm, nguyên trùng hoặc ký sinh trùng khác. Hơn nữa các loại mầm bệnh không chỉ

gây bệnh đơn thuần mà còn có thể bệnh hỗn hợp hoặc kế phát làm bệnh chứng lâm sàng

càng thêm phức tạp. Do đó, việc chọn lấy loại bệnh phẩm thích hợp với loại bệnh tật này

hay khác và việc thu mẫu ảnh hưởng lớn đến kết quả chẩn đoán. Trong trường hợp nghi

ngờ bệnh do cảm nhiễm vi khuẩn, chẳng hạn, cần chú ý mở rộng giả thuyết về loại mầm

bệnh mà lấy mẫu thích hợp để chẩn đoán cả bệnh cảm nhiễm virut và nấm,...

II. Chẩn đoán bệnh nguyên học

1. Lấy mẫu và bảo quản mẫu bệnh phẩm

Kết quả phân lập bệnh nguyên phụ thuộc việc lấy bệnh phẩm vào thời điểm thích

hợp và từ vị trí thích hợp cũng như những xử lý thích hợp cho đến khi xét nghiệm. Cách

lấy mẫu khác nhau phụ thuộc loại bệnh, mẫu bệnh phẩm,... nhưng về nguyên tắc thì lấy

sớm khi mới phát hiện bệnh trạng lâm sàng, hoặc nếu vật bệnh chết thì ngay sau khi chết

là tốt. Tuy nhiên, trong những bệnh cảm nhiễm mãn tính bệnh nguyên vẫn còn có thể

phân lập được ngay cả khi bệnh đã qua. Vị trí lấy bệnh phẩm thích hợp trong đa số

trường hợp là tổ chức có biến đổi bệnh lý (ổ bệnh) hoặc vị trí liên quan. Ví dụ, trong bệnh

cơ quan hô hấp lấy dịch xoang mũi và khí quản, trong bệnh thần kinh lấy máu hoặc tủy

sống, trong bệnh đường tiêu hóa lấy phân hoặc dịch từ hầu họng, trong bệnh ở da thì lấy

nội dịch bọc nước và bọc mủ, trong bệnh đường sinh dục tiết niệu thì lấy nước tiểu hoặc

dịch thẩm xuất tử cung,... Hơn nữa, trong trường hợp phân lập mầm bệnh từ mẫu bệnh

phẩm mổ khám bệnh tích thì cần lấy một cách vô trùng tránh vi khuẩn đường ruột ô

nhiễm các loại bệnh phẩm (não, gan, lách, hạch lympho,...), thời điểm lấy các mẫu sau

chết càng sớm càng tốt vì sau khi súc vật chết vài giờ các nội quan và máu đã bị tạp

khuẩn xâm nhập và phát triển. Hơn nữa, đối với các bệnh cảm nhiễm virut có chứng

nhiễm virut huyết nặng như bệnh sốt lưu hành bò thì cần lấy máu vào thời điểm sốt. Sau

phát bệnh hai tuần trở đi là thời kỳ lấy máu thu huyết thanh kỳ hồi phục. Trong thời kỳ

này hiệu giá kháng thể tăng so với thời kỳ sốt cấp tính chứng tỏ mầm bệnh chứa kháng

nguyên thuộc loại dùng để phát hiện kháng thể. Ví dụ, nếu một bệnh xuất hiện trong quần

thể thì ở các cá thể bị bệnh cấp tính triệu chứng bệnh kéo dài khoảng 1 tuần, khi đó khả

năng phát hiện được mầm bệnh nhờ lấy mẫu để phân lập trong khoảng 1 tuần đó cho đến

vài ngày sau đó. Trong kỳ cấp tính này kháng thể đặc hiệu chưa được hình thành. Tuy

nhiên, sau thời điểm này kháng thể đặc hiệu bắt đầu tăng dần. Nếu lấy mẫu huyết thanh

kỳ hồi phục (từ 10 ngày cho đến 1 tháng sau khi xuất hiện triệu chứng thì hàm lượng

(hiệu giá) kháng thể cao hơn nhiều so với lần lấy máu kỳ cấp tính. Trong kỳ hồi phục

này, ngược lại khó có thể phân lập được mầm bệnh.

Trong kiểm tra bệnh nguyên, sau khi lấy mẫu nên xét nghiệm mẫu càng sớm càng

tốt. Trong trường hợp không thể thực hiện xét nghiệm ngay được, nếu để phân lập vi

khuẩn thì bảo quản bệnh phẩm ở 4 °C hoặc đôi khi đông lạnh. Nhưng với bệnh phẩm để

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!