Thư viện tri thức trực tuyến
Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật
© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Chiếu vật bằng biểu thức miêu tả trong truyện ngắn nguyễn minh châu.
Nội dung xem thử
Mô tả chi tiết
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
NGUYỄN THỊ THÚY DIỄM
CHIẾU VẬT BẰNG BIỂU THỨC
MIÊU TẢ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số : 60.22.01
TÓM TẮT
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng – Năm 2015
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRƯƠNG THỊ DIỄM
Phản biện 1: TS. Bùi Trọng Ngoãn
Phản biện 2: TS. Trương Thị Nhàn
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn
tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn họp tại
Đại Học Đà Nẵng vào ngày 27 tháng 12 năm 2014.
Có thể tìm hiểu Luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Ngôn ngữ là người bạn đường không thể thiếu của con
người. Sự kì diệu, vẻ đẹp và ý nghĩa của ngôn ngữ loài người thường
xuyên khuấy động những con tim, khối óc tò mò và nhạy cảm”.
Nhưng ngôn ngữ chỉ thực sự bộc lộ những thuộc tính, những đặc
điểm bản chất nhất qua quá trình giao tiếp hằng ngày. Việc nghiên
cứu ngôn ngữ dưới góc nhìn ngữ dụng học – ngữ nghĩa là thực sự
cần thiết.
Chiếu vật là dấu hiệu đầu tiên thể hiện mối quan hệ giữa diễn
ngôn và ngữ cảnh. Trong các phương thức chiếu vật, chiếu vật bằng
biểu thức miêu tả là nội dung phức tạp nhất và chưa được nghiên cứu
chi tiết gây không ít khó khăn cho việc học tập và nghiên cứu.
Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong của văn học Việt
Nam thời kì đổi mới. Tìm hiểu đề tài Chiếu vật bằng biểu thức miêu
tả trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, người viết muốn cung cấp
một cái nhìn đầy đủ và toàn diện về hình thức chiếu vật bằng biểu
thức miêu tả, làm rõ mối quan hệ giữa hoạt động giao tiếp và việc sử
dụng biểu thức miêu tả để chiếu vật, thấy được nghĩa và giá trị của
phương thức chiếu vật bằng biểu thức miêu tả, từ đó làm nổi bật
đóng góp trên phương diện ngôn ngữ và dấu ấn riêng trên góc độ
sáng tạo văn học của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu và nghiên cứu đề tài này, người viết muốn hướng tới
những mục đích sau:
2
- Làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản nhất của phương thức
chiếu vật bằng biểu thức miêu tả: khái niệm, đặc điểm, sự phân loại,
các khái niệm liên quan.
- Phân tích làm rõ mối quan hệ tác động từ các nhân tố của
ngữ cảnh đến việc lựa chọn biểu thức miêu tả của Nguyễn Minh
Châu.
- Phân tích nghĩa và xác định giá trị của các biểu thức miêu tả
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đối với các vấn đề khác của
ngữ dụng học.
- Hướng tới xác định phong cách sử dụng ngôn ngữ,
cách khám phá hiện thực cuộc sống và con người của Nguyễn Minh
Châu.
3. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Công trình được hoàn thành sẽ có những đóng góp như sau:
Về mặt lí luận: cụ thể hoá những lí thuyết về biểu thức miêu tả
chiếu vật; mối quan hệ giữa hình thức chiếu vật bằng biểu thức miêu
tả với hoàn cảnh giao tiếp; sự tác động của hình thức chiếu vật bằng
biểu thức miêu tả đối với lí thuyết hội thoại, lí thuyết lập luận và ý
nghĩa hàm ẩn.
Về mặt thực tiễn: phục vụ cho việc nghiên cứu ngôn ngữ nói
chung, ngữ dụng học nói riêng và việc giảng dạy tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu trong nhà trường.
4. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp
3
và thủ pháp sau:
- Phương pháp khảo sát ngữ liệu, thống kê và phân loại.
- Thủ pháp phân tích ngữ cảnh.
- Thao tác chứng minh bằng các dẫn chứng sinh động cụ thể từ
các tác phẩm văn học.
- Thủ pháp tổng hợp và khái quát.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu là phương thức chiếu vật bằng
biểu thức miêu tả trong các truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Các dữ liệu được chọn làm dẫn chứng trích từ các truyện ngắn
trong Nguyễn Minh Châu (1999), Tuyển tập truyện ngắn, NXB Văn
học, Hà Nội.
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, công trình có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về những vấn đề liên quan đến đề tài
Chương 2: Vai trò của ngữ cảnh đối với nội dung của các biểu
thức miêu tả chiếu vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa và giá trị của các biểu thức
miêu tả chiếu vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. GIỚI THUYẾT VỀ CHIẾU VẬT
1.1.1. Khái niệm chiếu vật
Khái niệm chiếu vật (reference) được đề cập trong hầu hết các
công trình nghiên cứu về ngữ dụng học của những nhà nghiên cứu
tên tuổi: Georgia M. Green, Đỗ Hữu Châu, Đỗ Thị Kim Liên,
Nguyễn Thiện Giáp, nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ (chủ biên) –
Nguyễn Thị Ngân Hoa – Đỗ Việt Hùng – Bùi Minh Toán.
Biểu thức chiếu vật là “một biểu thức ngôn ngữ (expression)”
khi nó thực hiện chức năng chiếu vật. Nói cách khác, một kết cấu
ngôn ngữ (từ, cụm từ, câu) được dùng để chiếu vật gọi là biểu thức
chiếu vật.
Nghĩa chiếu vật là khái niệm được dùng để chỉ chính xác “cái
thực thể nào, đặc tính nào, quan hệ nào, sự kiện nào” của thực thể
khách quan được biểu thị thông qua việc chiếu vật của người sử
dụng.
1.1.2. Các phương thức chiếu vật
a. Chiếu vật bằng tên riêng
b. Chiếu vật bằng biểu thức miêu tả
c. Chiếu vật bằng chỉ xuất
5
1.2. LÍ THUYẾT VỀ CHIẾU VẬT BẰNG BIỂU THỨC MIÊU
TẢ
1.2.1. Khái niệm
Lí thuyết về chiếu vật bằng biểu thức miêu tả được đề cập
trong nhiều công trình nghiên cứu ngữ dụng học với những mức độ
khác nhau của các nhà ngôn ngữ học Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thiện
Giáp, Đỗ Thị Kim Liên, Đỗ Hữu Châu. Công trình có tính gợi mở
cho đề tài này là Hiện tượng đa nghĩa chiếu vật trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du của tác giả Kim Huế của Đại học Sư phạm Hà Nội.
Chúng tôi tiếp thu tất cả các ý kiến trên một cách chọn lọc, từ
đó xác lập cho mình một quan niệm cụ thể, rõ ràng, để đảm bảo tính
khoa học cho công trình.
1.2.2. Phân loại biểu thức miêu tả chiếu vật
a. Phân loại biểu thức miêu tả chiếu vật theo tính chất
- Biểu thức miêu tả xác định.
- Biểu thức miêu tả không xác định.
b. Phân loại biểu thức miêu tả chiếu vật theo cấu tạo
Chúng tôi tạm phân loại biểu thức miêu tả chiếu vật
như sau:
- Biểu thức chiếu vật là một cụm danh từ gồm danh từ kết hợp
với một từ.
- Biểu thức chiếu vật là một cụm danh từ gồm danh từ kết hợp
với nhiều từ.
- Biểu thức chiếu vật là một cụm danh từ gồm danh từ kết hợp
với cụm từ, kết hợp với từ và cụm từ hoặc kết hợp với nhiều cụm từ
6
(cụm đẳng lập/ cụm chính phụ/ cụm chủ vị/ cụm phức hợp).
+ Định ngữ là một cụm từ (cụm đẳng lập, cụm chính phụ, cụm
chủ - vị).
+ Định ngữ là một từ kết hợp với một cụm từ (cụm chính phụ
hoặc cụm chủ vị).
+ Định ngữ gồm nhiều cụm từ kết hợp với nhau (các cụm
chính phụ, các cụm chủ - vị và phức hợp cụm).
1.2.3. Phân biệt biểu thức miêu tả với các khái niệm liên
quan
a. Phân biệt biểu thức miêu tả chiếu vật với biểu thức miêu
tả có chức năng thuộc ngữ
Sự khác biệt cơ bản là ở vai trò của chúng trong
diễn ngôn:
- Biểu thức miêu tả chiếu vật giúp người nghe, người đọc nhận
diện đối tượng (sự vật, hiện tượng) nào được nói đến.
- Thuộc ngữ giúp người đọc gọi tên đặc tính của sự vật, hiện
tượng.
b. Phân biệt biểu thức miêu tả chiếu vật với biểu thức miêu
tả giúp người tiếp nhận hiểu biết đầy đủ hơn về sự vật
Khác biệt cơ bản nằm ở mục đích sử dụng:
- Biểu thức chiếu vật miêu tả được dùng để chiếu vật.
- Biểu thức giúp người tiếp nhận hiểu biết đầy đủ hơn về đối
tượng được miêu tả được dùng để cung cấp thêm thông tin về sự vật,
hiện tượng, có thể đảm nhận thêm chức năng làm thành phần phụ
chú trong câu.
7
1.3. GIỚI THIỆU VỀ TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
Nguyễn Minh Châu là một trong số các nhà văn lớn của văn
học Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỉ XX. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu về sáng tác của ông trên phương diện văn học.
Luận văn của chúng tôi mong muốn đem lại một đóng góp
mới khi nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu trên phương diện ngôn
ngữ học.
CHƯƠNG 2
VAI TRÒ CỦA NGỮ CẢNH ĐỐI VỚI NỘI DUNG
CỦA CÁC BIỂU THỨC MIÊU TẢ CHIẾU VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
2.1. VAI TRÒ TÁC ĐỘNG CỦA NHÂN VẬT GIAO TIẾP
2.1.1. Quan hệ vai giao tiếp
a. Xác lập vai trong cuộc giao tiếp nhà văn – người đọc
- Xác lập các vai chủ ngôn, thuyết ngôn, đích ngôn, tiếp ngôn
(theo quan niệm của Đỗ Hữu Châu).
- Cuộc giao tiếp giữa nhà văn và người đọc là một cuộc giao
tiếp đặc biệt.
- Nhà văn truyền thông điệp cho người đọc bằng cách mượn
lời các nhân vật trong truyện (qua hội thoại giữa các nhân vật) hoặc
sáng tạo một người kể chuyện để thay mình nói với người đọc. Hai
cách thức thông tin này đã hình thành hai tình huống giao tiếp khác
nhau.
b. Khi các nhân tố thuyết ngôn, tiếp ngôn đồng thời có mặt
Chúng tôi tiến hành thống kê dạng thức cấu tạo của các biểu
8
thức miêu tả trong hai truyện ngắn Mảnh trăng và Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành (xem Bảng 2.1 ở chính văn).
c. Khi các nhân tố thuyết ngôn, tiếp ngôn không đồng thời
có mặt
Chúng tôi tiến hành thống kê dạng thức cấu tạo của các biểu
thức miêu tả trong hai truyện ngắn Cỏ lau và Phiên chợ Giát (xem
Bảng 2.2 ở chính văn).
So sánh hai bảng: Trường hợp 1, người phát và người nhận cùng ở
trong một hoàn cảnh giao tiếp nên dễ dàng xác định đối tượng nào được
đề cập đến trong diễn ngôn, biểu thức miêu tả vì thế có cấu tạo đơn giản.
Trường hợp 2, thuyết ngôn và chủ ngôn không đồng thời có mặt, định
ngữ miêu tả có cấu tạo phức tạp hơn để thông tin về đối tượng được cụ
thể, chi tiết giúp người đọc xác định nghĩa chiếu vật một cách chính xác
nhất.
2.1.2. Quan hệ liên cá nhân
a. Kiểu nhân vật chi phối nội dung của biểu thức miêu tả
Kiểu nhân vật chi phối nội dung của biểu thức miêu tả.
a1. Khi thuyết ngôn là nhân vật mang tính sử thi
Khi thuyết ngôn là nhân vật mang tính sử thi, các biểu thức
miêu tả chiếu vật gắn liền với hiện thực cuộc kháng chiến: con người
thời chiến với âm hưởng ngợi ca xuất hiện với mật độ cao: một người
chị ruột làm cán bộ ở một hạt giao thông quãng cầu Đá – Xanh (chị
Tính); một tiểu đoàn trưởng nổi tiếng khắp một vùng đồng bằng hữu
ngạn sông Hồng (ông việt); sự vật, sự kiện của đời sống kháng chiến,
gắn bó sâu sắc với cuộc đời người lính: xe chở hàng quân sự; chuyện
9
địch bắn phá cầu Đá Xanh; chuyện các đơn vị giao thông quyết bảo
vệ đường cho xe chạy;...
a2. Khi thuyết ngôn là một “chủ thể tự nó” với năng lực tự ý
thức
Khi thuyết ngôn là “chủ thể tự nó” với năng lực tự ý thức, nội
dung của biểu thức miêu tả phụ thuộc vào phạm vi hiện thực (chủ
yếu là hiện thực tâm lí) mà thuyết ngôn có ý thức phản ánh với người
đọc.
Biểu thức miêu tả trong Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát đã
phản ánh một cách xuất sắc, tường tận nhận thức cũng như thế giới
nội tâm của nhân vật lão Khúng – một người nông dân, quen thuộc
nhưng lại là một nhân cách xuất sắc với sự tháo vát hiếm có trong lao
động và tổ chức gia đình, với tầm nhìn xa rộng về cách làm ăn, với
tính cách mạnh mẽ, thiết thực nhưng cũng đầy mơ mộng.
Trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, với ý thức phản
ánh bi kịch trong tâm hồn người đàn bà mộng du, biểu thức miêu tả
phải có chức năng làm sống dậy quá khứ với những hồi ức đẹp đẽ,
làm sao để quá khứ ấy trở thành nỗi réo giục khiến người đàn bà luôn
bất yên, trăn trở: người đàn ông đáng quý nhất trong số những người
đáng quý ấy; bác sĩ trưởng trạm phẫu thuật tiền phương; đồng chí
trung đoàn trưởng trẻ tuổi;...
b. Sự tinh nhạy của nhân vật giao tiếp làm xảy ra hiện tượng
đồng chiếu vật
Hiện tượng đồng chiếu vật được sử dụng như một thủ pháp
nghệ thuật trong các tác phẩm văn học.
10
Trong Một lần đối chứng, nhà văn đã dùng hơn 15 biểu thức
miêu tả để chiếu vật cho một con mèo: con mèo khốn khổ khốn nạn
kia; chàng hiệp sĩ áo đen ấy; con mèo ốm sắp chết của khu tập thể cũ
của tôi ngày xưa; tên sát nhân;... Quá trình thay đổi tên gọi đối với
con mèo vừa phản ánh thái độ của nhà văn vừa cho thấy sự thay đổi
của về ngoại hình lẫn tính cách của con vật, trên cơ sở đó, nhà văn
đối chứng với con người.
Trong truyện ngắn Khách ở quê ra, 8 biểu thức khác nhau
được dùng để quy chiếu nhân vật lão Khúng, qua đó khái quát cốt
cách tập quán của nhân vật cũng là của người nông dân sản xuất nhỏ
từ ngàn đời: lập nghiệp một mình; thích chơi trội, cổ hủ, bảo thủ; chỉ
tin mình, hoài nghi và dè bỉu những cái lạ; nếp sinh hoạt tùy tiện,
thiếu văn minh.
Việc liên tiếp sử dụng biểu thức miêu tả đồng chiếu vật trong
một đoạn của diễn ngôn cũng là một dấu hiệu giá trị học. Đó là khi
nhà văn dùng đến 6 biểu thức miêu tả với tính chi tiết tăng dần để
quy chiếu cho những người lính của Toàn tại tiểu đoàn 7 trong
truyện ngắn Mùa trái cóc ở miền Nam để đả kích những tên chỉ huy
quỷ đội lốt người trong hàng ngũ cách mạng.
Trong truyện ngắn Bức tranh, khuôn mặt người họa sĩ được
quy chiếu bằng nhiều biểu thức tương đương: khuôn mặt của một
người khách đang ngồi như bị đóng đinh vào chiếc ghế mộc của một
cửa hiệu cắt tóc; một cái mặt người rất lớn; cái bộ mặt thật của tôi;...
nhằm phóng to thế giới tinh thần với cuộc đấu tranh nội tâm và khát
11
vọng tìm tòi, phục thiện ánh sáng nhân tính trong khả năng tự thức
tỉnh của con người.
Hiện tượng đồng chiếu vật thể hiện tiến trình phát triển của cốt
truyện, xung đột, từ đó góp phần làm sáng tỏ chủ để tác phẩm.
2.2. VAI TRÒ TÁC ĐỘNG CỦA HIỆN THỰC NGOÀI DIỄN
NGÔN
2.2.1. Sự tác động của hiện thực – đề tài của diễn ngôn
Trong cuộc giao tiếp giữa nhà văn và người đọc, đề tài của
diễn ngôn chính là đề tài của văn bản văn học. Hiện thực – đề tài của
diễn ngôn trong tác phẩm văn học là hiện thực của thời đại nhà văn
đang sống, xuất phát từ những gì nhà văn quan sát, trải nghiệm, suy
tư được nhận thức bởi người đọc.
a. Đề tài tình yêu
Đề tài này tác động sâu sắc đến sự phát triển nghĩa chiếu vật
của các biểu thức miêu tả.
Ở Mảnh trăng, các biểu thức: một người ngồi nhờ lên cầu Đá
Xanh; con người đang ngồi sau kia; người mà chị tôi thường nhắc
đến; người con gái nhỏ bé;... thể hiện sự phát triển tình cảm của nhân
vật Lãm đối với nhân vật Nguyệt, cách chiếu vật từ xa đến gần (về
tình cảm) phù hợp với một câu chuyện tình mang tính chất của một
cuộc đuổi bắt như chuyện tình yêu thời chiến. Tồn tại xung quanh
mối tình lãng mạn ấy là một thế giới cảnh vật nên thơ, những không
gian và thời gian đầy nghệ thuật: vầng trăng khuyết mỏng mảnh; đôi
chim gọi nhau suốt đêm;... Không gian ấy nâng vẻ đẹp tình yêu lên
nhiều lần.