Siêu thị PDFTải ngay đi em, trời tối mất

Thư viện tri thức trực tuyến

Kho tài liệu với 50,000+ tài liệu học thuật

© 2023 Siêu thị PDF - Kho tài liệu học thuật hàng đầu Việt Nam

Chăm sóc sức khỏe bằng y học cổ truyền
PREMIUM
Số trang
200
Kích thước
42.1 MB
Định dạng
PDF
Lượt xem
1252

Chăm sóc sức khỏe bằng y học cổ truyền

Nội dung xem thử

Mô tả chi tiết

XUÂN TÂM

(biên soạn)

CHĂM SÓC SỨC KHỎE

BẰNG Y HỌC CỖ TRUYÈN

CẨM NANG SỨC KHỎE GIA ĐÌNH BẠN

CHĂN SÓC sệ EH ỏl

BMC ĩ HỌC

I

cể m é

XUÂN TÂM (Biên soạn)

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN

PHƯƠNG PHÁP CHỦ YẾU

TRI BỆNH KHÍ HUYẾT THÂP ĐÀM

Đ

iểu trị khí huyết, đàm thấp là một đặc

điểm riêng của y học cổ truyền (Đông y)

những từ đàm, huyết không được đề cập

đến trong Tây y bởi những lý luận về đàm và huyết

cũng có khác với y học hiện đại. Đê thuận lợi cho

việc ứng dụng trên lâm sàng^có thê chia ra bốn

phương pháp điều trị.

I. PHƯONG PHÁP TRị BỆNH KHÍ

Có 4 phương pháp: (1) Bổ (2) Sơ, (3) Thăng (4)

Giáng. Khí hư thì bổ, khí trệ thì sơ, khí hàn thì

thăng, khí nghịch thì giáng.

A. BỔ KHÍ

Y học cổ truyền rất coi trọng đến khí có nhiều

loại khí có thể phân thành 3 loại:

- Một là về phương diện sinh lý: Nhân tô' quan

trọng cho hoạt động của nội tạng là “Nguyên khf’

5

hay còn gọi là “Tinh khí”. Đê phân biệt tác dụng

của khí ở các bộ phận thuận lợi cho việc thuyết

minh người ta chia ra khí ở ngực (phế) gọi là tông

khí, khí ở trung tâm (tỳ vị) gọi là Trung khí, ở hạ

tiêu (thận mệnh) có 2 khí là chân âm, chân dương

còn có khí ở phần biểu gọi là Vệ khí.

- Hai là về phương diện bệnh lý: chỉ những hiện

tượng bệnh lý của các tạng sau khi mắc bệnh: như

bệnh can thì thấy hông đầy, bụng dưởi trướng gọi

là “can khí”. Vị bệnh biểu hiện là ăn vào thì đầy,

trung quản đầy tức gọi là “vị bệnh”....

- Ba là về phương diện tà bệnh như trong lục

dâm, hàn tà, thấp tà cũng gọi là “hàn khí” “thấp

khí”...

Phương pháp bổ khí chỉ dùng cho những chứng

hậu khuy tổn ỏ loại thứ nhất.

Phê chủ điều khí toàn thân, vị chủ trung khí,

khí của hậu thiên, bổ khí phải chú ý đến 2 kinh

phê và tỳ nhưng bô trung khí là thường dùng nhất.

Khí và huyết có quan hệ mật thiết với nhau, thuốc

bổ khí thường kết hợp với thuốc bố huyết. Khí

thuổc dương cho nên khi khí hư còn phải dùng

thuõc phù dung. Thuốc bổ khí dễ gây nên ưng trệ,

nên trung tiểu có đàm thấp thì không dùng.

Nhưng khi cần cũng có thể vừa bổ khí vừa hóa

đàm và lý thấp. Nếu khí hư không vận hóa được

gây nên đầy trướng thì phải lý khí (tắc nhân, tắc

dụng).

6

1. Phương pháp bồi bổ trung khí

Triệu chứng: tinh thần mệt mỏi, sắc mặt vàng

xám, tiếng nói nhỏ, tứ chi vô lực, tiêu hóa kém, đại

tiện phân nhão.

Thuốc thường dùng: Hoàn kỳ, Đảng sâm, Bạch

truật, Cam thảo, Phục linh, Hoài Sơn, Biển đậu.

Trung khí thuộc tỳ vị, chứng hư nhược của

trung khí phần nhiều chỉ hiện tượng suy thoái công

năng của tỳ vị, biểu hiện là ăn uống kém, đại tiện

lỏng, làm cho thiếu dinh dưỡng, tiếng nói nhỏ yếu,

mạch nhu hoãn. Cho nên bổ trung khí phải lấy tỳ

vị làm cơ sở, thường dùng bài Tứ quân tử thang.

Người xưa vận dụng bài Tứ quân tử thang để chữa

bệnh hư nhược của tỳ vị phân thành ba loại.

- Tăng cường tác dụng bổ trung thì dùng bài

Lục thần tán gia Hoài sơn, Biên đậu, Ngạnh mễ.

- Một loại kết hợp với phương tế bổ hư dùng

bài: Bát trận thang tức bài Tứ quân cộng với Tứ

vật thang.

- Loại khác là chiếu cố đến kiệm chứng, điều trị

cả gốc lẫn ngọn, loại này tương đôi phức tạp. Như

dị công tán gia Trần bì đê hành khí, Lục vị dị công

tiễn gia Trần bì càn hương đê hành khí chỉ ẩu,

hương sa lục quân gia Mộc hương, Sa nhân, Bán

hạ, Trần bì hoá đàm chỉ thông, tứ lô ẩm gia Bán

hạ, Trần bị, Thảo quả, o mai để hóa đàm, triệt

ngược Thất vị Bạch truật tán gia Mộc hương, hoắc

7

hương hóa thấp nhiệt, Hộ tỳ hoàn gia Hoài sơn,

Trần bì, Liên nhục, Sơn tra, Trạch tả, Tiêu can

tích... Hầu hết những bệnh chứng do tỳ vị hư

nhược gây nên đều dựa trên cơ sở bài tứ quân đê

gia giảm. Nhưng tỳ vị hư nhược không hoàn toàn

là trung khí hư nhược. Trung khí hư nhược có đặc

chứng riêng biểu hiện tinh thần mệt mỏi, tiếng nói

nhỏ, đoản hơi đụng đến việc làm là thở dốc cho nên

phải dùng bài thuốc bổ trung ích khí như Hoàng

kỳ làm chủ dược, Hoàng kỳ vị cam, tính ôn, khí

hậu để chữa chứng trung khí bất chấn, thanh

dương, ho hãm, có công năng ôn dưỡng sinh phát

thường dùng kèm với Đảng sâm. Vì Đảng sâm có

tác dụng bồi bổ nguyên khí, Hoàng kỳ bô trung

khí, trường hợp ỉa chảy lâu ngày do tỳ hư thì dùng

Đảng sâm làm chủ, nếu như vinh khí thiếu vong

huyết, tự hãm thì dùng Hoàng kỳ làm chủ. Đồng

thời hoàng kỳ có tính thăng để thiên về phần

dương, khí hư, dương hư thì nên thăng, nên dễ

thích hợp nhất. Có người dùng bài bổ trung ích khí

thang thăng .đê chỉ chú ý đến vị Thăng ma. Sài hồ

mà quên vị cơ bản là Hoàng kỳ, là chữa toàn diện.

2. Phường pháp bổ dưỡng phế khí:

Triệu chứng: Phế nuy, ho lâu ngày mất tiếng,

khí đoản.

Thuốc thường dùng: Hoàng kỳ, Hoài sơn, Sa

sâm, Mạch môn, Ngũ vị, Đông trùng hạ thảo.

8

Phê làm chủ khí, chủ vì mao, phê khí đầy đủ

thì hô hấp điều hòa, da lông kín đáo, cho nên biểu

hiện của phế khí bất tức thường thấy thở gấp, ho

suyễn, da lông thì hở, ra mồ hôi nhiều, sợ gió, nên

việc điều trị bổ phê ích khí nên chiếu cô đến việc

thu liễm cố biểu. Ngoài ra phế có khả năng phân

b<D tân dịch, khí hư làm cho tân dịch không di

chuyển được, mồ hôi ra nhiều thì làm cho thương

tân do đó bổ dưỡng phê khí nên chiếu cô" đến phê

âm. Tỳ và phế có quan hệ mẫu tử vì vậy phải bố vị,

bổ phê thường kết hợp vói bổ tỳ gọi là “Bồi thô sinh

kim pháp” — Dựa vào hệ tương hố để điều trị

thường ứng dụng cho trường hợp phế lao. Trường

hợp kèm có chứng âm hư nội nhiệt thì dùng thêm

thuốc tư thận gọi là “Kim thủy tương sinh pháp”.

3. Phương pháp ích vệ cô biểu:

Triệu chứng: biểu hư ra nhiều mồ hôi, sợ gió

hay bị cảm mạo.

Thuốc thường dùng: Hoàng kỳ, Bạch truật,

Phù tiểu mạch, Ma hoàng căn, Hà mẫu lệ.

Phế chủ vệ khí, vệ khí xuất ra ở hạ tiêu.

Trường hợp vệ khí hư da lông không kín, bệnh nhẹ

thì trị ở thượng tiêu, thường dùng mẫu lệ tán (Mẫu

lệ, Ma hoàng căn, Phù tiểu, Mạch hoàng kỳ) gia

giảm, dùng mẫu lệ đê chỉ hãn trị chủ chứng.

Hoàng kỳ để ích khí cố biêu.

Bệnh nặng mồ hôi ra không ngừng gọi là vong

9

dương dùng bài phụ tử thược dược, Cam thảo

thang trị ỏ hạ tiêu. Bổ ích vệ khí dùng Hoàng Kỳ

và phụ tử làm chủ dược. Mồ hôi ra nhiều đê làm

tổn thương tân dịch, vọng âm có biểu hiện tiểu tiện

ít, chân tay co rút nếu giai đoạn đó thì không nên

dùng như thế. người xưa thường dùng: Hoàng kỳ,

Bạch truật, Phòng phong trị biểu hư. Bị cảm

phong tà, hoặc sau cảm mạo mà ta không giải

dùng Hoàng kỳ làm quân: dùng bài Đương qui lục

hoàng thang (Đương qui, Hoàng kỳ, Sinh thục địa,

Hoàng cầm, Hoàng bá, Hoàng liên) để trị huyết hư

hỏa vượng, nóng trong ra mồ hôi trộm. Cũng dùng

Hoàng kỳ để cô" biểu, tư âm, tả hỏa. Bệnh nhân suy

nhược hay bị phong hàn xâm nhập sinh chứng đau

mỏi xương khớp, đau lưng thì dùng quê chi cơ sơ

điều hòa dinh vệ mà trước tiên là phải cô" biểu.

4. Phép ôn bổ thận khí:

Triệu chứng: 0 hàn, tứ chi lạnh, đau lưng thơ

khó đi tiểu nhiều lần

Thuốc thường dùng: Phụ tử, Nhục quê", Thục

địa, Sơn thù, Hoài sơn, Câu kỷ tử, Ba kích niên.

Dương khí ỏ thận tức là mệnh môn hỏa. Người

xưa cho rằng mệnh môn là bộ phận trọng yếu của

con người, mệnh môn hỏa suy mọi hoạt động của con

người bị đình chỉ, vì vậy, khí hư đến giai đoạn cấp

cứu phải dùng phụ tử đê bổ hỏa làm chủ. Nguyên

khí hư phải kết hợp với Nhân sâm, Trung khí hư

10

phải kết hợp với Bạch truật, Vệ khí hư phải kết hợp

vối Hoàng kỳ, tức là bài Sâm phụ thang, Truật phụ

thang và kỳ phụ thang. Thận và mệnh môn có quan

hệ mật thiết với nhau, Thận là tạng có 2 chức năng

cả thủy và hỏa: Mệnh môn có 2 khí âm dương cho

nên có ôn bổ thận dương, phải có tư bổ thận âm.

Dùng bài Bát vị Quê phụ tức là bài Lục vị địa

Hoàng hoàn gia phu tử, Nhục quế, điều đó nói rõ

rằng phù dương trên cơ sở bô âm.

B- Sơ KHÍ

Sơ khí, thứ khí, lý khí, lợi khí, hành khí tên gọi

khác nhau, mức độ khác nhau, song tóm lại đều là sơ

dưỡng khí thận. Nội kinh nói “Sơ khí kiêm điều khí”.

Y học cổ truyền coi trọng tác dụng của khí,

phương pháp sơ khí được dùng rộng rãi trên lâm

sàng, khí cơ đầy đủ thì mọi trở trệ trong người

giảm hoặc mất đi cho nên các phương bài bất luận

bổ, tiêu hay hạ bao hàm các mặt hóa đàm lợi thấp,

hoạt huyết... đều có thuốc sơ khí phối hợp. Đó là

một đặc điểm.

Nguyên nhân của khí uất trệ phần nhiều do

thất tình gây nên, sau đó là do đàm thấp trở trệ.

Sơ khí thường dùng cho 2 kinh Can và Vị. Bởi vì

can khí dễ bị tình chí kích thích gây nên uất kết và

hoành nghịch, vì khi đã bị đờm thấp trợ trệ mà

phát sinh hiện tượng ngực sườn đầy tức. Các thuốc

Sơ khí thường cay thơm mà táo, dùng nhiều dùng

11

lâu sẽ làm hao khí, tán khí và tiêu hao tân dịch,

đổi vối người huyết hư, âm hư hỏa vượng thì không

nên dùng.

1. Phương pháp sơ can lý khí

Triệu chứng: Đầy tức ngực sườn, hiếp thông,

bụng dưới đầy trướng và đau.

Thuốc thường dùng: Uất kim, Hương phụ, Sài

hồ, Thanh bì, Lá quít, Diên hồ, Kim linh tử, Hoè hoa.

Thuổc Sơ can lý khi thường dùng với can khí

hoành nghịch, để hành khí, tán khí hiệu quả tương

đốì nhanh. Tính vị các loại thuốc này thường cay

thơm, táo dễ hao tổn chính khí khi dùng phải chú

ý 2 điểm: Can là tướng hỏa, khí nghịch tắc tướng

hỏa dễ động. Bệnh nhẹ do nội nhiệt, bệnh nặng do

can hỏa bị kích động, Can tàng huyết, can chu sơ

tiết điều đạt, các chức năng này có quan hệ mật

thiết với nhau, can khí thái quá có thể làm cho can

huyết thương tổn, dùng thuốc lý khí cũng đê phòng

được huyêt hư, khi can khí bị bệnh thường phải Sơ

khí là lý do như vậy. Khi xử phương thường gia

Bạch thược để bổ âm, như bài tứ nghịch tán (Sài

hồ, Trần bì, Bạch thược, Xuyên khung, Hương phụ,

Chỉ xác, Cam thảo)...

Chứng can uất thuộc can khí uất kết, khí uất

phải sơ khí. Nhưng can khí hoàn nghịch là do tác

dụng của khí thái quá, can khí uất kết là do tác

dụng của khí bất cập. Nguyên nhân gây bệnh có

12

khác nhau. Tuy nhiên can uất lâu ngày cũng có

thể hóa thành can khí. Nhưng khi can khí uất kết

không thê dùng thuốc chữa khí nghịch đê điều trị:

Chứng can uất là do suy nghĩ nhiều ngực sườn đầy

tức, làm ảnh hương đến tâm tỳ mệt mỏi, chán ăn,

mơ mộng nhiều, khác với can khí bị bệnh. Nói

chung khi điều trị thường dùng bài tiêu giao tán

(Bạch linh, Bạch truật, Bạch thược, Sài hồ, Đương

qui, Chi tử, Đan bì) đê hòa huyết, thư khí và kiện

trung điều lý, hoặc bài Việt cúc hoàn (Hương phụ,

Thương truật, Sơn chi, Xuyên khung, Thần khúc)

để giải uất. Bởi vì khí uất là do nhiệt uất, nhiệt uất

tất đàm uất, đàm uất, tất huyết uất, huyết uất tất

thực uất. Vì vậy mà gây nên bệnh. Thường dùng

Hương phụ đê lý khí, Xuyên khung điều huyết.

Thương truật để khử thấp, Sơn chi tả hỏa, Thần

khúc đê tiêu thực có đàm thì gia bối mẫu. Có 5

loại uất. Khi điều trị phải dựa vào nguyên nhân

bệnh mà chữa, không nên cô chấp một phương

nhất định. Dùng Tiêu giao tán trị uất do huyết hư,

Việt cúc hoàn trị uất do khí thực.

2. Phương pháp hòa vị lý khí

Triệu chứng: Quản, phúc trướng, đau tức, ợ ra

nước chua.

Thuốc thường dùng: Bán hạ, Trần bì, Phục

linh, Chỉ xác, Sa nhân, Khấu nhân, Mộc hương, 0

dược, Hậu phác, Phật thủ, Hoắc hương.

13

Vị khí hòa giáng là quí, nếu vị khí nghịch tất

tiêu hóa kém, bụng đầy trướng và đau: Căn cứ

nguyên nhân như thất tình, hàn tà xâm nhập và

đàm thấp trơ trệ có quan hệ trực tiếp với nhau.

Căn cứ vào ảnh hương của nội tạng mà nói thì

tạng can và đại tiểu thường có quan hệ mật thiết

với nhau. Vì vậy mà dùng thuốc lý khí hòa vị nhiều

phải căn cứ vào tình hình cụ thê của bệnh tật mà

sử dụng như dùng bài On đảm thang gia giảm, ôn

đảm thang là bài Nhị trần thang gia Chỉ thực,

Trúc như, có lý khí và hòa trung kết hợp với trừ

đàm hóa thấp. Nếu bị thấp nhiều gia Hậu phác,

bụng đầy đau gia Mộc hương, o dược, ngoài ra còn

tùy chứng mà dùng các vị Hương phụ, Thần khúc.

Đại phúc bì, Tân lang, Chỉ thực... Trong điều trị

phải dựa vào môi quan hệ giữa tạng phủ này với

tạng phủ khác, đặc biệt là khi điều trị về phần khí.

Về phương diện lý khí quan hệ càng rộng. Còn

phải nghĩ đến nguyên nhân và hậu quả của nó. Vì

vậy mà khi sử phương phải có chủ, thứ không chỉ

dùng lý khí đơn thuần.

C- GIÁNG KHÍ

Giáng khí làm cho khí nghịch bình thuận lại.

Vì thế còn có tên gọi là Bình khí, Thuận khí, Can

khí nghịch biểu hiện ngực sườn đầy tức vì khí

nghịch biểu hiện nấc nhiều.

14

Phế khí nghịch biểu hiện đàm trọc ủng tắc

xung khí thượng nghịch.

Giáng khí thường áp dụng cho chứng thực không

dùng cho chứng hư, không nên dùng thường xuyên.

1. Phép giáng khí khoan trung

Triệu chứng: Khí nghịch hung cách, khi trở

hình như hết hơi.

Thuốc thường dùng: Trầm hương, Chỉ thực,

Binh lang, o dược, Mộc hương.

Đây là phương pháp dùng chữa khí nghịch do

thất tình, bệnh tình tương đôi nghiêm trọng, như

hông bụng trướng đầy, khi tắc nếu nặng có thê gây

nên quyết nghịch gọi là “khí huyết”. Dùng các

thuốc vị chua, lợi thấp như bài Ngũ ma ẩm (Mộc

hương, Chỉ xác, o dược, Bình lang, Trầm hương)

đê hạ khí cho nhanh. Nếu người mệt mỏi có thê gia

nhân sâm tức bài Tứ ma ẩm (Bình lang, Trầm

hương) đê hạ khí cho nhanh. Nếu người mệt mỏi có

thê gia nhân sâm tức bài Tứ ma ẩm (Bình lang,

Trầm hương, o dược, Nhân sâm). Thường giáng

khí không nên tách rời vối lý khí, dùng các thuốc lý

khí như Uất kim, Hương phụ.

Chứng khí nghịch do khí cơ trỏ trệ, thường

thấy do đàm trọc kết tụ, hoặc dương khí uất, biêu

hiện chứng trạng hư lãnh ngực bụng đau điếng. Vì

vậy mà vừa giáng khí vừa tiêu đàm ôn trung kết

hợp. Dùng bài Thất khí thang (Hậu phúc, bán hạ,

15

Tử tô, Phục linh, Khương táo), hoặc bài Tứ thất

thang (Nhục quế, Nhân sâm, Bán hạ, Cam thảo,

Sinh khương). Mục đích đê giáng khí, không phải

là trị đàm suyễn; Giá như đàm ủng trướng đầy, hô

hấp, suyễn úc, không nằm được đó là do đàm, đàm

không tiêu tất khí không giáng thường dùng Tử tô

giáng khí thang (Tử tô, Tiên hồ, Bán hạ, Hậu phác,

Quất hồng, Trầm hương, Đương qui, Cam thảo) gia

giảm gọi là “giáng khí hóa đàm pháp”.

Giáng khí khoan trung đê cho khí đi xuống là

thuận. Nếu như thận hư không thê cố nhiếp làm

cho khí đưa lên gây khó thở, ra mồ hôi một nửa

đầu, đi tiểu nhiều lần, mạch trầm sác vô lực.

Thường dùng thất vị đô khí hoàn (Thục địa, Sơn

thù, Sơn dược, Đơn bì, Phục linh, Trạch tả, Ngũ vị

tử). Nhân sâm cáp giới tán (Nhân sâm, Cáp giới)

Tu bổ thu liễm hạ nguyên gọi là phép “Nạp khí”.

2. Phép giáng khí chỉ ách

Triệu chứng: Vị khí thượng nghịch, chứng hay

nấc.

Thuốc thường dùng: Đinh hương, Thị đề, Sinh

khương, Trần bì, Hậu phác. Nấc liên hồi thường do

vị hàn gây nên, nên dùng Đinh hương thi đê

thang. Đinh hương ôn vị Thị đề đắng giáng khí.

Chứng nấc dễ gây tổn thương trung khí, bệnh lâu

ngày hoặc người già bị bệnh này cần phải giữ gìn

vệ khí, Gia nhân sâm, Sinh khương. Đàm thấp

16

Tải ngay đi em, còn do dự, trời tối mất!